2025-01-14 21:11:05 Số lượt xem 21
CHUYÊN ĐỀ
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
về tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao
hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; phấn đấu
hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025”
(Kèm theo Kế hoạch số 168- KH/TU, ngày 03/01/2025
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy)
--------
Phần thứ nhất
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ
TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
 
 
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY
Với quan điểm bộ máy nhà nước là công cụ hữu hiệu để phục vụ nhân dân chứ không phải là gánh nặng cho nhân dân, ngoài đặc tính cách mạng, nhân văn và pháp lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến tính hiệu quả, tinh gọn của bộ máy hành chính nhà nước.
 
1. Xác định tiêu chí của một bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả làm căn cứ cho công tác thực tiễn
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết đó phải là bộ máy ít bộ - ngành, ít tầng nấc trung gian, ít cán bộ nhưng vẫn thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu luôn hết sức gọn nhẹ. Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám chỉ gồm 15 thành viên; Chính phủ cách mạng lâm thời sau Cách mạng Tháng Tám vẫn gồm 15 thành viên với 13 bộ; Chính phủ liên hiệp kháng chiến năm 1946 chỉ gồm 12 thành viên và 10 bộ. Trả lời câu hỏi của các phóng viên, vì sao công việc bộn bề mà chính phủ liên hiệp chỉ có 10 bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì nước mình nhỏ nên không cần nhiều bộ”. Song song với việc thiết lập bộ máy hành chính Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ đạo xây dựng ủy ban nhân dân các cấp theo phương châm gọn nhẹ về tổ chức, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ. Người nói rõ: “ủy ban nhân dân (làng, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương... ủy ban có từ 5 đến 7 người”. Luôn đề cao nguyên tắc tinh gọn, Ban thanh tra đặc biệt - tiền thân của Ban Thanh tra Chính phủ hiện nay - do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập vào tháng 11-1945 cũng chỉ gồm 2 người là cụ Bùi Bằng Đoàn và người thanh niên trẻ Cù Huy Cận; bộ phận giúp việc trực tiếp của Người trong kháng chiến chống Pháp chỉ có 8 người và sau năm 1954 cũng chỉ có hơn 10 người.
Ngoài đặc tính “ít mà tốt”, tính hiệu quả của bộ máy hành chính còn thể hiện ở khả năng tương tác giữa các bộ phận chức năng sao cho giữa họ vừa có sự phân định nhiệm vụ rõ ràng, vừa có sự phối hợp “ăn ý”. Với tư duy khoa học và lòng tôn trọng mỗi con người, mỗi công việc trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy. Thiếu một người nào hay có một người không làm tròn nhiệm vụ là hỏng cả”. Tinh gọn tức là không có ai thừa ra trong bộ máy đó, đồng bộ tức là hoạt động của một người, một bộ phận sẽ tác động đến sự vận hành của cả một bộ máy, hiệu quả tức là ít người mà làm được nhiều việc - đó là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả.
 
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đặt ra yêu cầu phải chấn chỉnh biên chế, sắp xếp lại bộ máy hành chính
Với óc quan sát tinh nhạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra các biểu hiện đi ngược lại tiêu chí về bộ máy tinh gọn mà mình đã đặt ra. Vì thế, vào tháng 8-1951 - thời điểm mà bộ máy hành chính của ta nhìn chung còn nhỏ gọn, cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố chủ trương “Thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”. Năm 1952, nói chuyện với cán bộ quân nhu, Người chính thức đưa ra khái niệm tinh giản bộ máy. Người nói: “Nói chung, các cơ quan đều phải tiết kiệm. Riêng cơ quan cung cấp tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là đưa năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”. Người nói rõ việc tinh gọn phải diễn ra trong toàn hệ thống chính trị chứ không chỉ trong các cơ quan hành chính: “Các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ quan kinh tế và các ủy ban, cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người (tinh giản)... Vô luận thế nào cũng phải tìm đủ cách để biên chế các cơ quan lại”.
Như vậy, vấn đề giảm biên chế đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra một cách quyết liệt với mục tiêu không chỉ “cắt bỏ cơ học” lao động dôi dư mà còn là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Người nhìn nhận tác dụng của công tác giảm biên không chỉ ở góc độ kinh tế mà còn ở góc độ văn hóa và đạo đức khi nó buộc cán bộ phải hoàn thiện mình về mọi mặt, phải nâng mình ngang tầm nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu của tổ chức, mong muốn của nhân dân.
 
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hệ thống giải pháp hữu hiệu để xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả
Theo phương châm “muốn lúa tốt phải diệt cỏ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm cách nâng cao tính tích cực của nhân tố con người và triệt tiêu những nguyên nhân làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực trong công tác cán bộ. Cụ thể là:
Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức công vụ, nâng cao quyết tâm sửa đổi lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức: Để có một bộ máy hành chính thực sự tinh gọn, hiệu quả, công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước phải làm cho đội ngũ cán bộ, công chức ý thức sâu sắc về vai trò người đầy tớ và bổn phận phải hoàn thành tốt công việc của mình. Người luôn nhắc nhở cán bộ: “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”. Khi cán bộ công chức có đạo đức cách mạng, có kỷ luật lao động, có phương pháp làm việc tốt thì một người có thể làm công việc của hai người, một ngày có thể hoàn thành công việc của hai ngày, tức là tính hiệu quả của bộ máy hành chính sẽ được nâng lên.
Tổ chức bộ máy một cách khoa học, sử dụng nhân lực hiệu quả: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự cồng kềnh của bộ máy công quyền nhiều khi là do cán bộ làm việc luộm thuộm, “thiếu óc tổ chức”. Vì thế, Người yêu cầu: “Tổ chức phải gọn gàng. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải quy định rõ ràng. Các cấp và các cán bộ lãnh đạo phải giúp đỡ và đôn đốc thường xuyên, phải kiểm tra chặt chẽ”. Đặc biệt, người lãnh đạo phải biết “dụng nhân như dụng mộc”, tức là biết loại bỏ cán bộ hư hỏng như người thợ lành nghề biết loại bỏ gỗ mục, biết đặt con người vào đúng sở trường, biết kết hợp các loại cán bộ để họ bổ trợ cho nhau. Khi người lãnh đạo biết đặt người lao động vào vị trí “đắc địa” và biết động viên họ tự giác làm việc thì bộ máy dù gọn nhẹ nhưng vẫn hoạt động hiệu quả.
Đẩy lùi căn bệnh tư túng, bè phái, địa phương chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ có chức, có quyền: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bộ máy hành chính “phình to” chủ yếu là do một số cán bộ có chức, có quyền đã tìm mọi cách “đem người tư làm việc công”. Căn bệnh địa phương chủ nghĩa cũng gây khó khăn cho công tác cán bộ vì cán bộ mắc căn bệnh này chỉ chăm chú đến lợi ích của địa phương mình. Tùy hoàn cảnh mà họ muốn giữ lại cán bộ tốt cho địa phương mình hoặc không chịu tinh giản biên chế ở đơn vị mình, gây cản trở cho sự điều tiết cán bộ trong toàn hệ thống. Nếu không đẩy lùi những căn bệnh này trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì bộ máy hành chính sẽ ngày càng đông mà không mạnh.
Sử dụng đội ngũ trí thức làm công tác tư vấn về những vấn đề mà họ am tường: Nhờ chủ trương đúng đắn này mà Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuy gọn nhẹ mà làm được rất nhiều việc. Đến mức, trước thành tựu của công tác lập pháp sau Cách mạng Tháng Tám, một số nhà nghiên cứu nước ngoài đặt câu hỏi: “tại sao một chính quyền của những người mới ở tù và mới ở trong rừng ra mà lại có thể sản sinh ra được một khối lượng khổng lồ những văn bản pháp luật, mà xét về chất lượng thì cũng không đến nỗi thua kém trình độ chung của thế giới lúc đó”. Sự kỳ lạ đó được lý giải bởi sự giúp đỡ, tư vấn của các chuyên gia về luật pháp. Điều tương tự cũng diễn ra ở mọi lĩnh vực khác của đời sống đất nước.
Phát huy vai trò của cơ quan Thanh tra Chính phủ: Cho rằng cơ quan thanh tra là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy Chính phủ, nhiệm vụ của thanh tra không chỉ là chống tham ô, lãng phí mà còn chống quan liêu - căn bệnh làm cho bộ máy hành chính trở nên cồng kềnh, yếu kém, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Ban Thanh tra quy chế đặc biệt là “tiên hành, hậu thuyết”, tức là có quyền “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong ủy ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi rồi báo cáo Hội đồng Chính phủ sau”. Với quan điểm cán bộ thanh tra phải như cái gương cho người ta soi mặt. Gương mờ thì không soi được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn những con người nổi tiếng chính trực, liêm khiết, như cụ Bùi Bằng Đoàn, Tôn Đức Thắng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Lương Bằng vào chức vụ Trưởng ban Thanh tra Chính phủ. Người còn yêu cầu lãnh đạo các cấp tuyệt đối không được thao túng công tác thanh tra mà phải hợp tác để cán bộ thanh tra hoàn thành chức trách của mình. Nhờ đó, những căn bệnh “cố hữu” của Nhà nước phần nào được ngăn chặn.
Như vậy, khi bộ máy hành chính ở nước ta vẫn trong giai đoạn phải bổ sung và phát triển, khi đội ngũ cán bộ vẫn còn ít về số lượng và khá tốt về đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy nguy cơ “phình đại” của bộ máy hành chính quan liêu. Tiên lượng rõ cái thừa khi đang còn thiếu, cái xấu khi đang còn tốt, tìm ra cách thức ngăn chặn những căn bệnh còn trong giai đoạn manh nha... tất cả đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng, sự nhạy cảm chính trị, tính quyết đoán trong công tác tổ chức và tấm lòng vì dân, vì nước của Người.
 
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
1. Vị trí, vai trò của cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến cán bộ và công tác cán bộ. Người coi đó là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước.
Xác định vai trò, vị trí quan trọng của cán bộ trong thực hiện công việc cách mạng, Người nhiều lần nhấn mạnh rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người ví cán bộ như cái dây chuyền của bộ máy liên quan đến nhiều bộ phận, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với Nhân dân. Theo Người: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân”. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”. Thực tiễn của các thời kỳ cách mạng cho thấy, trong tất cả mọi công việc của Đảng dù to hay nhỏ, cán bộ là yếu tố trung tâm, then chốt và quyết định đến sự sống còn của Đảng, sự tồn vong của chế độ.
 
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ
2.1. Về đạo đức của người cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về đạo đức cách mạng, là biểu tượng sinh động về thực hiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng với Nhân dân.
Tấm gương lớn Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được Nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ngợi ca, noi gương. Là nhà cách mạng cộng sản, đạo đức cách mạng trở thành một phẩm chất tự nhiên, yếu tố cấu thành năng lực của người cách mạng để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Người viết:
"Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người"
Sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức thể hiện nhất quán, xuyên suốt, trong đó Người luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng. Mở đầu cuốn “Đường Kách mệnh”, Người đã nêu lên hai mươi ba điều về “Tư cách người Kách mệnh”, trong đó: “Đối với tự mình phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức của người cán bộ trước hết phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhân dân, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết; biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, dân tộc; nếu lợi ích của Đảng và của cá nhân mâu thuẫn nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của Đảng. Đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở lối sống trong sạch, lành mạnh, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không xa hoa, lãng phí, không hủ hóa, tham ô, không đặc quyền đặc lợi, sa vào chủ nghĩa cá nhân; có tinh thần đoàn kết, kỷ luật nghiêm minh, tương thân, tương ái; “bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của Nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”; phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần; không quan liêu”. Người cán bộ cách mạng phải có mối quan hệ mật thiết, gương mẫu, gần gũi, gắn bó với Nhân dân; phải là đầy tớ trung thành, hết lòng hết sức phục vụ Nhân dân, không cửa quyền, hách dịch, không lên mặt “quan cách mạng”.
Người cán bộ chân chính phải gắn liền với năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; phải nêu cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình, bởi “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cán bộ phải thường xuyên rèn dũa, Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân, là sự hội tụ đẹp nhất, trọn vẹn nhất về phẩm chất đạo đức cách mạng; là tấm gương sáng ngời cả đời phấn đấu hy sinh vì dân, vì nước, vì hạnh phúc con người. Tấm gương đạo đức cách mạng của Người mãi soi sáng cho mọi thế hệ cán bộ, đảng viên noi theo.
 
2.2. Về năng lực chuyên môn (tài) của người cán bộ
Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, cùng với việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, Người yêu cầu cán bộ phải có năng lực (tài): “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… chính trị là đức, chuyên môn là tài”. Tài của người cán bộ được thể hiện ở trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn, làm chủ tri thức khoa học, sự hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn của mình, kinh nghiệm, kỹ năng sáng tạo tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Với quan niệm: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tìm kiếm, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng những người tài đức cho cách mạng.
Tư tưởng “Chiêu hiền đãi sĩ” được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ngay từ những ngày đầu cách mạng; khi còn ở Quảng Châu, Người đã lựa chọn, tập hợp những thanh niên ưu tú, có trình độ, năng lực để đào tạo, bồi dưỡng, sau này đưa về nước hoạt động. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, với tư tưởng “Kiến quốc cần có người tài”, Người đã viết hai bài viết “Nhân tài và kiến quốc”, “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc, nhờ đó thu hút được rất nhiều người có tài, đức tham gia xây dựng và kiến thiết đất nước từ những ngày đầu chính quyền cách mạng còn non trẻ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đức và tài phải luôn gắn bó chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong nhân cách người cán bộ cách mạng; cán bộ, đảng viên phải vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, có như thế mới đủ phẩm chất và năng lực đảm đương công việc, dù có vất vả đến đâu, trong hoàn cảnh khó khăn thế nào, cũng có thể hoàn thành nhiệm vụ, đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Người cán bộ cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng là người “hồng thắm, chuyên sâu”, vừa có năng lực trí tuệ, trình độ hiểu biết, năng lực thực tiễn tốt để đạt hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Người yêu cầu: “Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung”. Theo Người, cán bộ có tài là người “hăng hái, thạo việc”, “biết việc, biết người”, “có gan quyết đoán”, “có gan phụ trách”, “dám chịu trách nhiệm”... có tác phong công tác, làm việc, sinh hoạt sâu sát thực tiễn, gần gũi Nhân dân, mở rộng dân chủ, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn, thể hiện tinh thần trách nhiệm; trong công tác biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, khéo tổ chức và lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người yêu cầu cán bộ càng phải: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi,... cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
Tài của người cán bộ còn ở chỗ, dù ở cương vị nào, làm công tác gì, khó hay dễ, chức vụ to hay nhỏ, cũng đem cả tinh thần và sức lực làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công; luôn nắm vững chính sách, đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh; mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân và làm tròn nhiệm vụ. Để hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ dù ở cương vị nào cũng phải tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Học tập càng khá, thì giải quyết các vấn đề càng dễ dàng, công việc càng trôi chảy. Để học tập tiến bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học Nhân dân, không học ở Nhân dân là một khuyết điểm rất lớn”.
Để được dân tin yêu, kính trọng, người cán bộ phải rèn luyện, làm tốt công tác chuyên môn, phải biết tránh xa những căn bệnh, những thói xấu thường gặp và dễ mắc phải như: bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa, bệnh cá nhân chủ nghĩa... Người nhắc nhở cán bộ: “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.
 
2.3. Về vai trò tiên phong, gương mẫu của người cán bộ, đảng viên
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc “nêu gương”, vai trò tiên phong gương mẫu của người cán bộ, đảng viên, bởi “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người căn dặn: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Người nhiều lần nhắc nhở muốn “nêu gương’ trước hết phải “làm gương”, cán bộ, đảng viên phải là những đầu tàu gương mẫu, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; trong cuộc sống hàng ngày, người cán bộ phải có trách nhiệm tự tu dưỡng để trở thành con người trong sáng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói đi đôi với làm, phải làm gương trong mọi việc từ nhỏ đến lớn, có như thế Nhân dân mới noi gương theo Đảng mà tin và làm theo. Chủ tịch Hồ Chí minh chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến”. Việc nêu gương phải thực hiện cả đối với bản thân mình, đối với người và đối với công việc.
Không chỉ nói về việc nêu gương của cán bộ đảng viên nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh những cán bộ chủ chốt, cấp cao, những người đứng đầu cần phải tiên phong trong việc nêu gương; chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng cần phải nêu gương về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phong cách làm việc, học tập sinh hoạt trước cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Người thường căn dặn cán bộ nòng cốt, cốt cán “đã hứa là phải thực hiện”, “nói thì phải làm”, phải thật thà “ba cùng” với quần chúng, với Nhân dân, “mình bảo người ta 10 ngày nhịn ăn một bữa mà chính đến ngày nhịn, mình lại cứ chén tỳ tỳ thì nghe sao được… Miệng nói tay phải làm mới được”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phương pháp nêu gương. Người chỉ ra rằng người tốt, việc tốt nhiều lắm, ở đâu cũng có, ngành nào cũng có, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có; trong gia đình, cha mẹ có thể là tấm gương cho các con; trong nhà trường, thầy cô giáo là tấm gương cho học trò…, “lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Người luôn theo dõi những điển hình tiên tiến được phản ánh trên các báo để tổng hợp và tìm cách nhân rộng. Trước lúc đi xa, Người đã cùng đồng chí Hà Huy Giáp tuyển chọn những gương tiêu biểu xuất bản thành sách “Người tốt việc tốt” để mọi người học tập, làm theo lan tỏa những cái tốt, cái đẹp trong xã hội.
Không chỉ đưa ra những tư tưởng, quan điểm đúng đắn về nêu gương, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là tấm gương sáng ngời, là biểu hiện mẫu mực, sinh động, cụ thể của sự tiên phong, gương mẫu, sự thống nhất giữa lời nói với hành động, việc làm. Người kiên trì nêu gương về đạo đức còn nhiều hơn những gì Người viết ra. Phong cách nêu gương trong tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện xuyên suốt trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, phấn đấu hy sinh vì nước, vì dân, không tư lợi của Người. Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: “Bao trùm lên tất cả ở Hồ Chí Minh là sự quên mình vì mọi người, chính là sự ham muốn duy nhất, ham muốn tột bậc của Người là làm sao mang lại thật nhiều hạnh phúc cho dân, cho nước. Cuộc sống hoàn toàn không chút gợn riêng tư, đã tạo nên ở Người một cái gì vô cùng trong sáng”. Trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cần thấm nhuần, phát huy trách nhiệm nêu gương theo tấm gương tiêu biểu, mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, góp phần giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
 
2.4. Về công tác cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, đây là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Để hoàn thành nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những yêu cầu đối với Đảng trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đó là:
 
2.4.1. Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ; chống cục bộ, địa phương, hẹp hòi
Đánh giá về vai trò của công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì vậy, Người rất quan tâm đến khâu hiểu và đánh giá đúng cán bộ.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn hiểu biết cán bộ trước hết phải tự biết mình: “Đã không tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”, “phải sửa những khuyết điểm của mình, mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”. Đánh giá cán bộ phải dựa trên quan điểm toàn diện, xem xét đầy đủ các mặt: Năng lực công tác (trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ), phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ; đánh giá đúng cán bộ để biết ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ kém, để phát hiện cái hay của họ mà khuyến khích, phát huy, nhìn ra cái dở của họ mà tìm cách giúp đỡ khắc phục. Trên cơ sở đó mà bố trí, sử dụng, đề bạt đúng cán bộ.
Để đánh giá đúng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải tiến hành thường xuyên, quyết không nên chấp nhất vì Người cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng đều không ngừng biến đổi, cán bộ cũng như vậy: “Có người khi trước theo cách mạng mà nay lại phản cách mạng, một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi, cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm”; quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau, “mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra”.
Đánh giá cán bộ phải khách quan, công tâm, minh bạch, không hẹp hòi, định kiến cá nhân, cục bộ, địa phương. Theo Người, tư tưởng “Ai hẩu (hợp) với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không hẩu (hợp) với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe”... Làm vậy sẽ “mất cán bộ, kém nhất trí. Đó là chứng bệnh rất nguy hiểm”. Những khuyết điểm này, làm Đảng mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, làm mất sự thân ái, đoàn kết đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ, mất niềm tin nên phải chữa cho “tiệt nọc”.
 
2.4.2. Phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng thành bại của sự nghiệp cách mạng tùy thuộc vào công tác cán bộ: “Tôi chỉ sợ những hành vi xấu xa của cán bộ làm cho đồng bào mất lòng tin với chế độ, Nhà nước và Đảng. Có thể nói, kẻ phá hoại sự nghiệp cách mạng đáng sợ nhất là những người ấy, vì trước mắt đồng bào, họ là Đảng và Nhà nước”. Từ đó, Người căn dặn “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”; huấn luyện cán bộ phải lấy chất lượng làm trọng, căn cứ vào đặc điểm, yêu cầu của nghề nghiệp, gắn liền với nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể, “làm việc gì học việc ấy”; phải huấn luyện toàn diện về nghề nghiệp, chính trị, văn hóa, lý luận đi đôi với thực hành, cả đức và tài; phải có kế hoạch rõ ràng, tổ chức khoa học, phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Huấn luyện cán bộ cần tiến hành thường xuyên, công phu, lâu dài, phải kiên trì và bền bỉ, bởi vì “không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt”.
Với Người, công tác huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ rất quan trọng, không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả mai sau: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
 
2.4.3. Phải khéo dùng cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Cố nhiên việc hay hay dở, một phần do cán bộ đủ năng lực hay không. Nhưng một phần cũng do cách lãnh đạo đúng hay không… Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ”.
Quan điểm của Người là không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay, ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở, “dùng người cũng như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”. Dùng cán bộ phải hợp lý, nhìn nhận, căn cứ đúng năng lực, chuyên môn, đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng chỗ, như thế sẽ phát huy được năng lực cán bộ, ngược lại, phân công không đúng chuyên môn, sở trường thì sẽ rất vất vả, khó khăn, kết quả công việc không đạt yêu cầu, giống như: “Thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”.
Khéo dùng cán bộ còn có nghĩa là phải tin tưởng vào cán bộ, tạo điều kiện, cơ hội để khuyến khích họ phát huy dân chủ và tinh thần trách nhiệm của mình; khi giao việc cho cán bộ thì cần chỉ đạo, trao đổi rõ ràng, đầy đủ, những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, động viên, khuyến khích họ mạnh dạn thực hiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích: “Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới càng nhiều. Vả chăng, số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng… Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng”. Lớp cán bộ đi trước là những người có nhiều kinh nghiệm về mặt lãnh đạo, trải qua rèn luyện, thử thách trong thực tiễn. Còn những cán bộ kế cận có sức trẻ, sự hăng hái, nhiệt huyết, nhạy cảm với cái mới và chịu khó học hỏi nên nhanh tiến bộ. Do đó, khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết hợp hài hòa giữa thế hệ cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, lớp cán bộ cũ và cán bộ mới, “hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau”, đảm bảo sự chuyển giao, bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau.
Người cũng chỉ ra rằng: “So với Nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có Nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”, vì vậy, khi dùng cán bộ cần phải trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng, phải lấy thước đo là tinh thần vì dân, vì nước, không được câu nệ, khinh rẻ, chê bai họ, phải có tinh thần hòa hợp, khách quan, không định kiến trong nhìn nhận, đánh giá vị trí xuất thân của họ, “miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian,… có lòng trung thành với Tổ quốc là có thể dùng được”.
 
2.4.4. Phải “có gan cất nhắc cán bộ”
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người làm công tác cán bộ phải có gan đề bạt, cất nhắc cán bộ, Người coi đây là một nghệ thuật, là khâu trung tâm của công tác cán bộ. Cán bộ nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu, nếu bố trí sử dụng đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy phong trào và hạn chế được mặt yếu của họ. Có gan cất nhắc cán bộ tức là phải mạnh dạn đề bạt, bổ nhiệm cán bộ vào các cương vị cần thiết đáp ứng nhu cầu cách mạng đề ra; người cán bộ được cất nhắc có thể còn có điểm yếu, song phải biết được khuyết điểm của họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ. Có gan cất nhắc là không sợ người cất nhắc sẽ vượt mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, cất nhắc cán bộ là một công tác cần kíp, nhưng phải làm cho đúng, “biết rõ cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực”. Có gan cất nhắc cán bộ không có nghĩa là làm nóng vội, làm liều, làm ẩu, càng không vì danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ; cất nhắc cán bộ phải vì công tác, vì tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Người căn dặn: “Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc. Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không biết làm, vào những địa vị lãnh đạo. Như thế rất có hại”.
Người đặc biệt nhấn mạnh, trước khi đề bạt, cất nhắc cán bộ phải xem xét, đánh giá phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, các mối quan hệ của họ trong quá trình công tác, những ưu, nhược điểm mà đề bạt, cất nhắc họ một cách công tâm, khách quan. Người căn dặn: “Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong lòng Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.
 Người còn nhắc nhở, đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng, cẩn thận, chính xác trước khi cất nhắc, mà sau khi cất nhắc phải giúp đỡ, khuyên răn họ, vun trồng năng lực, lòng tự tin, tự trọng của họ; cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”, “khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”.
 
2.4.5. Phải yêu thương, bảo vệ cán bộ nhưng kỷ luật phải nghiêm
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định cán bộ là tài sản vô giá của Đảng, của cách mạng, của dân tộc: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người cán bộ. Vì vậy, Đảng phải thương yêu cán bộ”. Người nhấn mạnh mất mát cán bộ là tổn thất lớn cho cách mạng, chính vì thế, chúng ta phải coi trọng cán bộ, phải hết lòng thương yêu, chăm lo bồi dưỡng, gìn giữ cán bộ; đặc biệt, là phải chăm lo giữ gìn cán bộ cũ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mới.
Người quan niệm học tập là công việc suốt đời của mỗi người, bất kì cán bộ nào còn làm cách mạng thì còn phải học tập, chỉ có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ, mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của sự nghiệp cách mạng. Chính vì thế, “thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”, Đảng, Nhà nước phải hết lòng chăm lo, tạo điều kiện cho cán bộ không ngừng học tập, không ngừng tiến bộ, trưởng thành.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn xác định, yêu thương cán bộ là luôn phải chú ý, quan tâm đến công tác của cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, thực hiện đầy đủ chức trách, nhiệm vụ được giao. Theo Người: “Thương yêu là luôn luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy khuyết điểm thì giúp cho họ sữa chữa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ”. Đồng thời, Người nêu rõ, yêu thương cán bộ còn là luôn biết động viên, khích lệ cán bộ khi họ có thành tích, phân tích giúp họ khi có khuyết điểm, để họ có tinh thần hăng hái, ý chí, quyết tâm vượt khó khăn, để đi đến chỗ “bại cũng không nản, thắng cũng không kiêu”. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”; vì vậy, đối với cán bộ mắc sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế mà công kích họ, ngược lại, chúng ta phải giải thích rõ ràng, làm cho họ tự trông thấy sai lầm đấy, phải có thái độ thân thiết, động viên, giúp đỡ họ sửa chữa.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu thương, bồi dưỡng cán bộ phải có phương pháp đúng. Đảng hết lòng yêu thương, chăm lo bồi dưỡng cán bộ nhưng “thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc”, phải quản lý cán bộ chặt chẽ, duy trì kỷ luật nghiêm minh, nhất là với cán bộ cao cấp, bởi nếu nuông chiều, thả mặc cán bộ sẽ sinh ra chủ quan, tự kiêu, tự phụ, vô kỷ luật, dễ hư hỏng về phẩm chất đạo đức, vi phạm nguyên tắc, gây tác hại khôn lường cho sự nghiệp cách mạng.
Mặc khác, với Chủ tịch Hồ Chí Minh thương yêu cán bộ là còn phải chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân cán bộ và gia đình họ, phải “giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm nom, gia đình họ khỏi khốn quẫn”. Người thường xuyên nhắc nhở các cơ quan, đơn vị phải tùy hoàn cảnh mà giúp đỡ cán bộ của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về yêu thương cán bộ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, đây là điểm đặc biệt thể hiện tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Với tình yêu thương ấy, cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết lòng chăm lo, giáo dục, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, trong đó đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó phải giữ nghiêm kỷ luật để tạo nên sức mạnh, sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, phải xác định khuyết điểm đó là việc to hay nhỏ để có hình thức xử lý cho phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ đảng viên”. Khi cán bộ vi phạm kỷ luật, tha hóa biến chất, cho dù ở vị trí công tác nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kiên quyết xử lý, thấu tình đạt lý, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, “nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật”.
 
 
Phần thứ hai
HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ
THỰC HIỆN TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU NĂNG,
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ;
PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH MỤC TIÊU ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP, NHIỆM KỲ 2020 - 2025
 
 
 
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HIỆN TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TỈNH BẮC NINH THỜI GIAN QUA
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh luôn chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử cách mạng nào, đội ngũ cán bộ của tỉnh cũng luôn thể hiện rõ vai trò tiên phong, đoàn kết, phấn đấu vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, góp phần làm nên những chiến thắng lịch sử vẻ vang của dân tộc và của quê hương Bắc Ninh- Kinh Bắc.
Để triển khai thực hiện có hiệu quả việc tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới, từng bước cải cách nền hành chính công theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh đã tập trung lãnh chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước dần được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kinh tế - xã hội phát triển, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh được giữ vững.
Đặc biệt việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Ban Thường Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 44-CTr/TU thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, nhằm đề ra những quan điểm chỉ đạo và xác định các mục tiêu, những nhiệm vụ, giải pháp chung đối với toàn bộ hệ thống chính trị và những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đối với từng tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị để tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện quyết liệt, đồng bộ về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Chủ động thực hiện giảm đầu mối các sở, ban, ngành và cơ cấu bên trong của từng tổ chức trong hệ thống chính trị; không thành lập mới các tổ chức trung gian; giải thể, sắp xếp lại các cơ quan tổ chức hoạt động không hiệu quả; sắp xếp lại, giảm tối đa số lượng phòng trong sở, ban, ngành, trung tâm, chi cục; tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan, đơn vị của hệ thống chính trị để khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh lãnh đạo, quản lý; kiên quyết cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, giảm số người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị. Tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn theo hướng tinh gọn. Giai đoạn 2022- 2024, Bắc Ninh đã sắp xếp, tổ chức lại các phòng, ban, đơn vị và tổ chức bên trong của 17/17 sở, ngành tỉnh; giảm 22 đầu mối các cơ quan, đơn vị; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của 16 sở, 4 trung tâm; giải quyết chế độ theo chính sách tinh giản biên chế của Trung ương cho 1.666 viên chức; công chức: 33.
Để thực hiện việc tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị hơn nữa, ngày 17/12/2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh đã ban hành Đề án số 12-ĐA/TU về “Sắp xếp tổ chức bộ máy máy theo Kết luận số 09-KL/BCĐ ngày 24/11/2024 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII "Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả"” nhằm sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên được các cấp ủy đảng chú trọng. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ luôn được các cấp uỷ đảng quan tâm thực hiện tốt. Tỉnh ủy ban hành Tỉnh ủy ban hành Kết luận số 42-KL/TU, ngày 04/12/2020 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 31-8-2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về “Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ tỉnh Bắc Ninh” giai đoạn 2020-2030; Đề án “Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII), Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; các Chỉ thị của Bộ Chính trị (Chỉ thị số 06-CT/TW khóa X, Chỉ thị số 03-CT/TW khóa XI, Chỉ thị số 05-CT/TW khóa XII) về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã được các cấp ủy đảng chú trọng, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng. Các cấp ủy đảng đã đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và chương trình công tác hằng năm; trong đó chú trọng việc tổ chức quán triệt, học tập, tuyên truyền về nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng kế hoạch thực hiện, cam kết rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, đăng ký việc làm theo Bác... Đưa nội dung chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào trong sinh hoạt chi bộ hàng tháng, sinh hoạt định kỳ gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Kết hợp chặt chẽ với các cuộc vận động, phong trào thi đua của các cấp, các ngành. Thông qua việc thực hiện học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII,XIII) đã tạo chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu được thể hiện rõ nét; góp phần đẩy lùi các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác xây dựng Đảng về tổ chức được thực hiện quyết liệt, đồng bộ. Tỉnh ủy chủ động ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm các chương trình, kế hoạch và các văn bản cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, các nghị quyết, quy định, kết luận của Trung ương, của tỉnh về công tác tổ chức xây dựng Đảng(); triển khai Kế hoạch số 80-KH/TU, ngày 30-12-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; Kế hoạch số 37-KH/TU ngày 28-12-2021, cụ thể hóa tổ chức thực hiện nghiêm túc Kế hoạch số 03-KH/TW, ngày 01-12-2021 của Bộ Chính trị thực hiện Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; trong đó, đã tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn tỉnh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng, phát triển đội ngũ đảng viên được tăng cường. Triển khai Chương trình hành động số 40-CTr/TU ngày 22-11-2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới; công tác kết nạp đảng viên, đặc biệt quan tâm phát triển đảng trong chi bộ nông thôn, người có đạo, phát triển đảng viên ngoài khu vực Nhà nước; từ năm 2020- 2023 đã kết nạp mới 3.374 đảng viên. Công tác kiểm điểm, đánh giá hàng năm được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định; bình quân trong nửa nhiệm kỳ, số tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 89,38%, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 90,32%. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quy định số 22-QĐ/TU, ngày 31-3-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về việc các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đi công tác và dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở.
Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều đổi mới, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, quy trình chặt chẽ, đồng bộ gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và phòng, chống chạy chức, chạy quyền; công tác giới thiệu cán bộ ứng cử được thực hiện theo đúng quy chế, quy định hiện hành ở từng cấp; công tác bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ thường xuyên được quan tâm thực hiện luân chuyển, điều động 24 lượt cán bộ, bổ nhiệm lại 26 cán bộ, bổ nhiệm mới 27 cán bộ; tiến hành xây dựng xong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, 2026-2031 đảm bảo dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, đúng quy định().
Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng được coi trọng, triển khai đồng bộ; quan tâm, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt các quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, quy định, hướng dẫn của Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng(); ban hành Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, quy chế phối hợp giữa Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy với các tổ chức Đảng và cơ quan có liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng(); xây dựng, triển khai Đề án số 03-ĐA/TU, ngày 07/4/2021 của Tỉnh ủy về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng nhiệm kỳ 2020-2025”; Kế hoạch số 57-KH/TU, ngày 24-08-2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 34-KL/TW, ngày 18-4-2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; góp phần nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng.
Hoạt động của chính quyền được nâng cao hiệu quả, cải cách hành chính, cải cách tư pháp được đẩy mạnh.
 
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN TINH GỌN TỔ CHỨC BỘ MÁY, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU NĂNG, HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ; PHẤN ĐẤU HOÀN THÀNH MỤC TIÊU ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ CÁC CẤP, NHIỆM KỲ 2020 - 2025 CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
 
1. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu về sự cần thiết thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị
Các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương về sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất rất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng"; "Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở", quyết tâm hoàn thành việc tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW và báo cáo về phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cụ thể việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy; đồng thời, chủ động nghiên cứu mô hình bên trong từng cơ quan sau khi sáp nhập, hợp nhất; chuẩn bị phương án nhân sự và rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cơ quan, tổ chức bộ máy mới để bảo đảm đi vào hoạt động hiệu lực, hiệu quả ngay. Trong quá trình thực hiện, phải bám sát các nguyên tắc của Đảng, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn đặt ra.
Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên. Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động phòng chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh việc học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị gắn với tiếp tục thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các Quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ và đảng viên nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị cần chủ động, tích cực, tự giác, gương mẫu đi đầu trong việc học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; chú trọng phát huy yếu tố “làm theo” trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. 
 
2. Giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; gắn trách nhiệm cụ thể người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ. Ban Thường vụ cấp ủy định kỳ nghe báo cáo về công tác tổ chức, cán bộ; tập trung giải quyết kịp thời những hạn chế, khuyết điểm về công tác cán bộ. Thường xuyên sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế, quy trình công tác cán bộ đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp, các ngành, công khai, minh bạch và phát huy dân chủ; ngăn chặn tiêu cực trong công tác cán bộ.
 
3. Tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, nghị quyết, kết luận, quy định của Trung ương, của Tỉnh ủy về công tác cán bộ, nhất là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 (khóa XII) về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung;…Đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; phòng chống tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ… và các biểu hiện tiêu cực khác trong công tác cán bộ.
 
4. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ, nhằm khắc phục hiệu quả những hạn chế, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ; triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các khâu trong công tác cán bộ.
Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng, tiếp nhận cán bộ bởi đây là khâu đầu tiên có tính quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh; căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế theo nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan đảm bảo tính cạnh tranh từ đó sẽ lựa chọn được người có phẩm chất, trình độ, năng lực.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và với kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đánh giá cán bộ phải đặt cán bộ trong phạm vi rộng, với những điều kiện cụ thể và đánh giá cả quá trình phát triển của cán bộ; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch và thực hiện đúng thẩm quyền, trách nhiệm trong đánh giá cán bộ.
Tập trung nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ; xác định rõ cơ cấu, độ tuổi trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp bảo đảm tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ trong quy hoạch cấp ủy các cấp.
Xác định việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là công việc thường xuyên, liên tục; các cấp ủy, tổ chức đảng phải xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.
Đẩy mạnh công tác luân chuyển, nhất là cán bộ nữ, cán bộ trẻ có triển vọng, phải bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông, thường xuyên, liên tục, có luân chuyển dọc, luân chuyển ngang giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị; phải gắn kết chặt chẽ với quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp tục thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ kết hợp chặt chẽ với bố trí một số chức danh lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và cán bộ không giữ chức vụ quá hai nhiệm kỳ liên tiếp.
Rà soát, sửa đổi Quy định số 17-QĐ/TU, ngày 16/6/2022 về phân cấp quản lý cán bộ; Quy định số 18-QĐ/TU, ngày 16/6/2022 về bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ cán bộ ứng cử, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức, viên chức; đảm bảo đồng bộ, thực hiện thống nhất trong toàn đảng bộ tỉnh và phù hợp với quy định của Trung ương. Quy định số 19-QĐ/TU ngày 15/3/2022 về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định số 22-QĐ/TU, ngày 31/3/2022 về việc các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đi công tác cơ sở và dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở; Quy định số 23-QĐ/TU, ngày 21/4/2022 về tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định số 25-QĐ/TU, ngày 26/8/2022 về luân chuyển cán bộ; Quy định số 26-QĐ/TU, ngày 31/8/2022 về việc ban hành quy định về quản lý hồ sơ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; Quy định số 27-QĐ/TU, ngày 13/12/2022 về quản lý biên chế hệ thống chính trị tỉnh Bắc Ninh; Quy định số 28-QĐ/TU, ngày 09/01/2023 về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị; Quy định số 30-QĐ/TU, ngày 19/6/2023 về phân cấp quản lý cán bộ; Quy định số 31-QĐ/TU, ngày 19/6/2023 về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử; tái cử, chỉ định, điều động và biệt phái cán bộ, công chức, viên chức; Thông báo số 401-TB/TU ngày 24/6/2022 về thẩm tra xác minh kết luận tiêu chuẩn chính trị về công tác cán bộ... đảm bảo đồng bộ, thực hiện thống nhất trong toàn đảng bộ tỉnh và phù hợp với quy định của Trung ương.
Thực hiện nghiêm Quy định số 58-QĐ/TW ngày 08/02/2022 của Bộ Chính trị về “Một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”; chủ động triển khai thực hiện tốt công tác thẩm định tiêu chuẩn chính trị phục vụ công tác kết nạp đảng viên, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử..., kiên quyết không để lọt những cán bộ không đủ tiêu chuẩn chính trị vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; thường xuyên quan tâm kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Xây dựng, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ: Thực hiện nghiêm các quy định của Trung ương về chính sách cán bộ. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chế độ chính sách về khuyến khích cán bộ được cử đi đào tạo, cán bộ luân chuyển, cán bộ tình nguyện nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Nhà nước; thu hút cán bộ có trình độ cao và chuyên môn giỏi về làm việc tại tỉnh…nhằm động viên, khuyến khích cán bộ yên tâm, cống hiến, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Đổi mới công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước một cách thực chất, khắc phục bệnh “thành tích”, hình thức, lãng phí. Tổ chức phong trào thi đua xây dựng môi trường làm việc thuận lợi để phát huy tốt nhất khả năng cống hiến và phát triển của cán bộ.
 
5. Tiếp tục lãnh đạo thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc sắp xếp, tinh giản biên chế gắn với việc đẩy mạnh cải cách hành chính, chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo các nghị quyết, kết luận của Trung ương, của tỉnh.
 
6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; kịp thời biểu dương, khen thưởng và xử lý cán bộ vi phạm
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy; xây dựng đội ngũ cán bộ để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị; kịp thời biểu dương, khen thưởng và xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật của Đảng và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết sàng lọc, loại bỏ những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Xây dựng quy chế, quy định cụ thể để đảng viên tự giác chịu sự kiểm tra, giám sát của chi bộ, của cấp ủy nơi công tác, nơi cư trú; ngăn chặn việc tự đặt bản thân lên trên tổ chức, lên trên tập thể, đồng thời khắc phục tình trạng e dè, nể nang, bao che, lảng tránh trách nhiệm kiểm tra, giám sát. Cần dựa vào Nhân dân và đề cao trách nhiệm của Nhân dân trong kiểm tra, giám sát, đánh giá, nhận xét năng lực, phẩm chất đạo đức, các mối quan hệ với quần chúng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh đó, cần tập trung kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực; nơi người dân có nhiều bức xúc, dư luận quan tâm; nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, coi trọng giám sát chuyên đề; tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, góp phần cho mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên, tự giác nêu gương.
Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động của ban chỉ đạo 35 các cấp về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; phối hợp với các cơ quan liên quan để đấu tranh, xử lý và đề xuất xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nói và làm trái chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
 
7. Phấn đấu hoàn thành mục tiêu Đại hội Đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025
Các địa phương, cơ quan, đơn vị bám sát vào các nhiệm vụ được Hội nghị lần thứ 23, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XX thông qua, chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu và mỗi cá nhân trong giải quyết công vụ gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số; có quyết tâm cao, hành động quyết liệt hơn nữa trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành bám sát chủ đề công tác năm 2025 của tỉnh “Quyết tâm hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX; Chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI; tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại đáp ứng tiêu chí đô thị loại I; tạo chuyển biến rõ nét về bảo vệ môi trường, đột phá về chuyển đổi số, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” và 5 quyết tâm chính trị của tỉnh trong năm 2025 để cụ thể hóa thành các kế hoạch, chương trình công tác với quyết tâm cao nhất hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra, tạo khí thế chào mừng Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ mới; tập trung các nguồn lực xây dựng tỉnh Bắc Ninh đạt tiêu chí đô thị loại 1, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. 
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tinh gọn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng, đủ năng lực, tiên phong, gương mẫu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn; là cơ sở để Đảng ta nói chung, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh nói riêng tiếp tục vận dụng vào việc thực hiện tinh gọn bộ máy, đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới để nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XX và đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025.
 
 
                  BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
 
 


1. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2011, t.5, tr.309.
2. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2011, t.5, tr.280.
3. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2002, t. 5, tr.269.
4. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội. 2011, t.4, tr.64-65.
5. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công bố năm 1969.
6. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.631.
7. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.9, tr.492.
8. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.10, tr.313.
9. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.286.
10. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.252.
11. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.552.
12. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, t.1, tr.284.
13. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.552.
14. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, t.4, tr.117.
15. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, t.15, tr.672.
16. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.277.
17. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.278.
18. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.278.
19. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.274.
20. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, t.5, tr.71-75.
21. Lời Bác căn dặn cán bộ, Báo Nhân dân, ngày 19/8/1997.
22. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.269.
23. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.273.
24. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.270.
25. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.282.
26. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công bố năm 1969.
27. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.280.
28. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.72.
29. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.274.
30. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.237.
31. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.237.
32. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.238.
33. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.43.
34. Hồ Chí Minh- Toàn tập,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.282.
35. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.274.
36. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.281.
37. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.282.
38. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr.282-283.
39. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr. 283.
40. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr. 283.
41. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr. 283.
42. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t.5, tr. 283.
.43 Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.283.
44. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.10, tr.311.
45. Hồ Chí Minh- Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.10, tr.311.
46.Đề án số 04-ĐA/TU ngày 14-10-2021 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường xây dựng nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý giai đoạn 2021-2030, định hướng đến năm 2035; Quy định số 17-QĐ/TU, ngày 16-02-2022 về phân cấp quản lý cán bộ; Quy định số 18-QĐ/TU, ngày 16-02-2022 về bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức, viên chức; Quy định số 19-QĐ/TU ngày 15-3-2022 về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định số 22-QĐ/TU, ngày 31/3/2022 về việc các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đi công tác cơ sở và dự sinh hoạt chi bộ tại cơ sở; Quy định số 23-QĐ/TU, ngày 21-4-2022 về tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Quy định số 25-QĐ/TU, ngày 26-8-2022 về luân chuyển cán bộ; Quy định số 26-QĐ/TU, ngày 31-8-2022 về việc ban hành quy định về quản lý hồ sơ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý; Quy định số 27-QĐ/TU, ngày 13-12-2022 về quản lý biên chế hệ thống chính trị tỉnh Bắc Ninh; Quy định số 28-QĐ/TU, ngày 09-01-2023 về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị; Quy định số 30-QĐ/TU, ngày 19-6-2023 về phân cấp quản lý cán bộ; Quy định số 31-QĐ/TU, ngày 19-6-2023 về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử; tái cử, chỉ định, điều động và biệt phái cán bộ, công chức, viên chức; Thông báo số 401-TB/TU ngày 24/6/2022 về thẩm tra xác minh kết luận tiêu chuẩn chính trị về công tác cán bộ...
 47.Ngoài thực hiện quy trình 5 bước theo quy định, khi thực hiện bổ nhiệm từ nguồn nhân sự tại chỗ thì cán bộ trình bày chương trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ (lồng ghép tại bước 4) trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định và mở rộng xin ý kiến thẩm định của Công an tỉnh, thanh tra, Sở Giáo dục & đào tạo.
 48.Đã bố trí 7/8 Đảng bộ cấp huyện có đồng chí Bí thư Huyện ủy không là người địa phương (chiếm 87,5%) và 3/8 đơn vị đảng bộ cấp huyện có đồng chí Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện không là người địa phương (chiếm 37,5%)
49. Kết quả Quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2020-2025, 2021-2026: Quy hoạch các chức danh diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý 18 lượt cán bộ; Quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh 85 lượt cán bộ; Quy hoạch Ban Thường vụ Tỉnh ủy 22 đồng chí; Quy hoạch các chức danh Phó Chủ tịch HĐND, UBND tỉnh và Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh 15 lượt cán bộ; quy hoạch đối với các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý 810 lượt cán bộ. Quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2025-2030, 2026-2031: Quy hoạch các chức danh diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý 10 lượt cán bộ; Quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh 62 lượt cán bộ; Quy hoạch Ban Thường vụ Tỉnh ủy 18 đồng chí; Quy hoạch các chức danh Phó Chủ tịch HĐND, UBND tỉnh và Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh 15 lượt cán bộ; quy hoạch đối với các chức danh thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý 672 lượt cán bộ.
50. Trọng tâm là: Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị quy định về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 09/12/2021 của Ban Bí thư hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quyết định số 89-QĐ/TW ngày 01/12/2022 của Ban Bí thư ban hành quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật đảng của cấp ủy tỉnh và tương đương đến cơ sở; Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành quy trình, mẫu văn bản nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng của chi bộ…
51. Quy chế phối hợp giữa Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh ủy với các cơ quan: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Ban Dân vận Tỉnh uỷ, Văn phòng Tỉnh uỷ, Thanh tra tỉnh, Công an tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh, với Đảng đoàn Hội đồng Nhân dân tỉnh và Ban Cán sự Đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh.
 
Video
Thống kê truy cập
Đang online24
Tất cả3246659