2021-06-23 13:54:01 Số lượt xem 2516
Để phục vụ công tác thông tin tuyên truyền trong tháng 7/2021, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thành phố đã triển khai việc lựa chọn, giới thiệu một số bài viết theo chuyên đề “Về tình hình nước Nga” đã được đăng tải trên Bản tin hàng ngày của Thông tấn xã Việt Nam, bao gồm những nội dung sau:
1. Bài “Chiến lược của Nga trong quan hệ với Mỹ” (Bài đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt hàng ngày của Thông tấn xã Việt Nam – số ra ngày 10/6/2021).  
2. Bài “Hợp tác Trung - Nga tại châu Phi” (Bài đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt hàng ngày của Thông tấn xã Việt Nam – số ra ngày 18/5/2021).
3. Bài “Thái độ của Mỹ khi Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau” (Bài đăng trên Tài liệu tham khảo đặc biệt hàng ngày của Thông tấn xã Việt Nam – số ra ngày 14/6/2021).
Trang Thông tin điện tử Thành ủy trân trọng giới thiệu tài liệu tham khảo nêu trên để phục vụ công tác tuyên truyền trong sinh hoạt chi bộ tháng 7/2021.
 
CHIẾN LƯỢC CỦA NGA TRONG QUAN HỆ VỚI MỸ
 
Điểm khởi đầu
Kể từ những năm 2010, mối quan hệ Nga – Mỹ đã được xác định bằng tình trạng đối đầu ngày càng tăng. Cuộc đối đầu gay gắt này không phải là kết quả của những sai lầm mà có tính chất hệ thống. Câu hỏi mang tính nguyên tắc được đặt ra là: Moskva sẽ thừa nhận thất bại và đồng ý tiếp tục cuộc chơi theo các quy tắc do Mỹ thiết lập, nghĩa là từ bỏ sự độc lập trong chính sách đối ngoại và đối nội, hay Washington sẽ thừa nhận quyền bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của Nga trên thế giới, nghĩa là công nhận chủ nghĩa đa trung tâm thực sự?
Giới lãnh đạo Nga và Mỹ có quan điểm khác nhau về trật tự thế giới và vai trò của họ trong hệ thống toàn cầu. Những khác biệt này không hoàn toàn đối nghịch nhau như trong thời ký chiến tranh Lạnh, nhưng chúng khiến Nga và Mỹ trở thành những đối thủ chính về địa chính trị và ý thức hệ. Không có chỗ cho sự thỏa hiệp trong tương lai gần. Cuộc đấu tranh này dù không cân sức nhưng dai dẳng và có lẽ còn kéo dài. Sự đối đầu Nga – Mỹ mang theo nguy cơ chiến tranh hạt nhân và sự hủy diệt hoàn toàn, nhưng khó có thể khơi mào cho một cuộc chiến mà kết cục của nó là một trong cá bên có thể nghiền nát kẻ thù bằng một cuộc tấn công hạt nhân quy mô lớn trong bối cảnh hiện tại – không giống như tình hình nửa sau thế kỷ XX. Trong thế kỳ XXI, việc Mỹ và Nga sử dụng vũ khí hạt nhân để chống lại nhau vẫn có thể xảy ra khi xung đột leo thang ở bất kỳ khu vực nào trên thế giới ảnh hưởng đến lợi ích của cả hai quốc gia hoặc khi các sự cố dẫn đến xung đột giữa các lực lượng vũ trang của Nga và Mỹ không được ngăn chặn kịp thời.
Đồng thời, cần lưu ý rằng vũ khí hạt nhân và thái độ sẵn sàng sử dụng biện pháp răn đe hạt nhân vẫn là những yếu tố chính và trên thực tế là những yếu tố ổn định trong quan hệ Nga – Mỹ. Liên Xô đã tránh được một cuộc chiến tranh thế giới mới nhờ nhanh chóng phát triển vũ khí hạt nhân và sau đó là các tên lửa đạn đạo liên tục lục địa (ICBM) có khả năng tấn công lãnh thổ Mỹ. Việc Nga phóng vệ tinh đầu tiên vào năm 1957 là một đòn giánh mạnh vào Mỹ và tước đi khả năng bất khả xâm phạm chiến lược của nước này. Sau vụ Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra lệnh ném bom Serbia vào năm 1999, nhiều người ở Moskva đã đi đến kết luận rằng một nước Nga không có tên lửa hạt nhân thời hậu cộng sản có thể sẽ phải hứng chịu các cuộc tấn công quân sự của Mỹ và các đồng minh. Mỹ biết rằng Nga là quốc gia duy nhất trên thế giới có khả năng tiêu diệt hoàn toàn nước Mỹ. Trên thực tế, sức mạnh hạt nhân của Nga là thứ duy nhất Mỹ phải tính đến trong quan hệ với nước này.
Cho rằng Nga là kẻ vi phạm ác ý trật tự được thiết lập bởi những người chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ luôn tìm cách cản trở Nga củng cố nội bộ và mở rộng ảnh hưởng của họ ra ngoài biên giới lãnh thổ. Để đạt được mục tiêu này, Mỹ đã tận dụng những lợi thế to lớn và rõ ràng của mình trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, công nghệ, chính trị, thông tin và các lĩnh vực khác. Chính phủ Mỹ và các chính trị gia theo trường phái “diều hâu” thường xuyên ép buộc Nga phải tuân thủ các biện pháp trừng phạt mang tính hạn chế, ủng hộ các lực lượng đối lập bên trong nước Nga, tìm cách chia rẽ giới cầm quyền và giới tinh hoa Nga, gây áp lực đối với các đối tác của Nga ở nước ngoài và liên tục tiến hành các chiến dịch thông tin chống lại Nga. Mục đích tối thiểu của những hành động này là buộc giới lãnh đạo Nga phải từ bỏ các hành động phá hoại trật tự thế giới lấy phương Tây làm trung tâm, và mục đích tối đa là tạo điều kiện cho sự thay đổi quyền lực ở Nga cũng như sự chuyển đổi chính sách đối nội và đối ngoại của nước này theo hướng có lợi cho Mỹ.
Về phần mình, giới lãnh đạo Nga coi cuộc đối đầu mới với Mỹ là hệ quả tất yếu của việc nước này tăng cường tiềm lực và theo đuổi chính sách độc lập vì lợi ích của riêng mình. Theo quan điểm của Moskva, trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo và nói rộng ra là sự thống trị thế giới của phương Tây phải được thay thế bằng một trật tự đa trung tâm công bằng hơn. Nga từ chối chấp nhận sự thống trị của bất kỳ cường quốc nào trong hệ thống quốc tế và cho mình là một trong những trung tâm của hệ thống thế giới mới. Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo Nga, Moskva sẵn sàng trả cái giá không thể tránh khỏi cho mong muốn đó; đáp trả các hành động của Mỹ; tận dụng các lợi thế địa phương, khu vực và trong lĩnh vực mà nước này có, cũng như mâu thuẫn nội bộ của chính nước Mỹ.
Điều này hạn chế đáng kể quan hệ Nga – Mỹ, nhưng không chặn đứng hoàn toàn bất kỳ cơ hội đối thoại và tương tác mang tính xây dựng nào giữa Moskva và Washington. Tuy nhiên, sự bất cân xứng của tình hình nằm ở chỗ việc nối lại đối thoại và thiết lập tương tác sẽ được hai bên  giải thích là một chiến thắng chính trị và tâm lý cho Nga. Theo đó, Washington thừa nhận sự hạn chế trong vai trò toàn cầu của mình.
Thất bại bất ngờ của ứng cử viên đảng Dân Chủ Hillary Clinton trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 đã khiến một bộ phận quan trong của giới tinh hoa Mỹ phải tìm kiếm nguyên nhân dẫn đến thất bại từ các nhà hành động của Nga trong lĩnh vực thông tin của Mỹ. Quả thực, kể từ giữa những năm 2010, các nguồn thông tin của nhà nước Nga – kênh truyền hình Russia Today và hãng thông tấn Sputnik – đã tích cực phối hợp với công chúng Mỹ, tạo ra một giải pháp thay thế cho các phương tiện truyền thông chính thống ở nước này. Tình báo Mỹ cũng cáo buộc các cơ quan đặc nhiệm của Nga tổ chức các chiến dịch chính trị nhằm hỗ trợ các ứng cử viên cụ thể và gây bất ổn cho tình hình chính trị nội bộ Mỹ trên mạng xã hội.
Với việc đảng Dân Chủ trở lại Nhà Trắng vào năm 2021 sau 4 năm cầm quyền của Donald Trump, Mỹ sẽ không chỉ tiếp tục chính sách gây sức ép với Nga mà rất có thể sẽ tăng cường sức mạnh của mình. Dưới thời Tổng thống Jose Biden, Mỹ sẽ mở rộng mặt trận đối đầu với Nga bằng cách đưa tình hình nội bộ của Nga và bối cảnh hậu Xô Viết vào danh sách các chủ đề cần quan tâm. Đồng thời, Mỹ sẽ hợp tác chặt chẽ hơn với các đồng minh, bao gồm Đức, Pháp và các nước khác trong Liên minh Châu Âu (EU). Thời gian tới sẽ là thời gian thử thách đối với chính sách đối ngoại của Nga. Rõ ràng là bối cảnh và định hướng chính sách của Nga được Washington đặc biệt quan tâm.
Về lâu dài – vào đầu những năm 2030 – tình hình của Mỹ và thế giới có thể tạo ra các cơ hội đối thoại và tương tác. Cần phải chuẩn bị cho viễn cảnh này, cũng như cần nhận thức được rằng quan hệ quốc tế luôn thay đổi và các quốc gia không có đối thủ hay đồng minh vĩnh viễn.
Triển vọng quốc tế của Mỹ.
Đến giữa thế kỷ XXI, và có lẽ lâu hơn nữa, Mỹ sẽ vẫn cường quốc hàng đầu và hùng mạnh nhất thế giới. Đồng thời, Mỹ sẽ ngày càng tập trung  vào việc củng cố nền tảng kinh tế, tài chính và công nghệ của chính mình; trấn áp các kẻ thù và đối thủ cạnh tranh; cũng như giảm bớt các nghĩa vụ toàn cầu. Đồng thời, họ cũng sẽ đòi hỏi các đồng minh phải hỗ trợ nhiều hơn trước.
Lực lượng nòng cốt của các liên minh Mỹ - gồm Mỹ, Anh, Canada, Australia và New Zealand – không đủ để giúp họ thực hiện mục tiêu này. Các quốc gia EU sẽ được yêu cầu phải đóng góp nhiều hơn vào việc duy trì hệ thống kinh tế tài chính và tăng cường tiềm lực công nghệ của Mỹ. Vào thời điểm Trung Quốc có khả năng giảm hoặc ngừng giúp Mỹ thanh toán các khoản nợ nước ngoài, các đồng minh của Mỹ sẽ phải lấp đầy khoảng trống nguồn lực này.
Ảnh hưởng của Mỹ đối với các khu vực bên ngoài phương Tây sẽ vẫn ở mức khá cao. Trung Quốc là đối thử chính của Mỹ trong thế kỉ XXI. Mỹ sẽ tìm cách tận dụng những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các nước láng giềng - Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Sự đối địch giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ là tâm điểm của các mối quan hệ quốc tế. Thế nhưng, nó sẽ không định hình toàn bộ chương trình nghị sự thế giới như trong thời kì chiến tranh lạnh Liên Xô – Mỹ.
Mỹ sẽ không chịu khuất phục trước Trung Quốc. Tuy rằng nỗ lực ngăn chặn của Mỹ thông qua việc kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc đã muộn, nhưng Trung Quốc sẽ không thể chiếm được vị trí của Mỹ trong hệ thống toàn cầu.
Căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ gia tăng, nhưng một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa họ vẫn khó có thể xảy ra so yếu tố răn đe tiếp tục được tăng cường. Mỹ và Trung Quốc khó có thể đạt được sự hòa hợp trên phạm vi thế giới, không chỉ mâu thuẫn sâu sắc giữa Washington và Bắc Kinh, mà còn vì sự khác biệt trong cách tiếp cận cơ bản của hai bên đối với tổ chức và trật tự thế giới. Một kết quả trung gian như vậy sẽ phù hợp và có lợi với Nga, vì nó sẽ dẫn đến sự phân bổ ảnh hưởng trên thế giới một cách đồng đều hơn.
Các mục tiêu
Trong tương lai gần, khi cuộc đối đầu Nga – Mỹ vẫn tiếp diễn, mục tiêu chính trong chính sách của Nga đối với Mỹ vẫn sẽ là ngăn chặn các tính toán sai lầm và những cuộc đụng độ vũ trang mà có thể đưa các bên đến một cuộc xung đột quân sự. Để đạt được mục tiêu này, một cơ chế liên lạc thích hợp ở các cấp đã được tạo ra nhằm mục đích ngăn ngừa các sự cố và loại trừ khả năng leo thang đến mức không kiểm soát của những sự cố này. Cơ chế này bao gồm các kênh liên lạc mở thường xuyên giữa các tổng thống, các nhà lãnh đạo cấp cao của quân đội và những người đứng đầu hội đồng an ninh của hai nước. Khi các lực lượng vũ trang của Nga và Mỹ hoạt động ở những vị trí gần nhau, một cơ chế nhằm ngăn ngừa xung đột đã được tạo ra.
Mục tiêu quan trọng của Moskva là duy trì sự ổn định chiến lược trong quan hệ với Washington. Trong bối cảnh giới lãnh đạo Mỹ đang dần từ bỏ các thỏa thuận với Moskva về kiểm soát vũ khí và các thỏa thuận quốc tế khác trong lĩnh vực này, sự ổn định chiến lược ngày càng được củng cố thông qua biện pháp răn đe hạt nhân đối với bên còn lại. Trong những năm gần đây, Nga đã đa dạng hóa đáng kể kho vũ khí răn đe của mình thông qua việc phát triển, thử nghiệm và đưa vào sử dụng các hệ thống chiến lược mới như vũ khí siêu thanh. Giới lãnh đạo Nga tự tin rằng không một hệ thống phòng thủ tên lửa nào được tạo ra trong vòng vài thập kỉ tới ở Mỹ sẽ có thể làm giảm khả năng tấn công trả đũa của Nga.
Nga quan tâm đến việc ngăn chặn Mỹ triển khai các hệ thống vũ khí và lực lượng vũ trang trên quy mô lớn ở Châu Âu và khu vực Viễn Đông mà có thể đe dọa an ninh của họ. Hệ thống vũ khí được nhắc đến ở đây là tên lửa tầm trung đang được phát triển và thử nghiệm lại sau khi Mỹ rời khỏi Hiệp ước Lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) vào năm 2019. Nếu các tên lửa có thể chạm tới các trung tâm chỉ huy, điều khiển và các cơ sở quân sự quan trọng nhất của Nga trong thời gian ngắn như vậy được triển khai ở Châu Âu hoặc Đông Bắc Á, thì phản ứng tương xứng của Nga có thể là tạo ra mối đe dọa đối với các trung tâm chỉ huy, kiểm soát và các căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực. Việc thay đổi quan điểm về sử dụng vũ khí hạt nhân từ tấn công đáp trả sang tấn công phủ đầu dường như là điều hết sức rủi ro. Nga cần phải đảm bảo chắc chắn tiêu diệt được đối thủ sau khi phóng vũ khí tấn công đầu tiên của mình.
Nga cần bình tĩnh trước việc Mỹ triển khai các hệ thống vũ khí và lực lượng của mình ở châu Âu (hiện chủ yếu ở phía Đông lục địa này). Những hệ thống và lực lượng này mới chỉ tạo ra mối đe dọa ở một mức độ nhất định. Vấn đề chính là phải loại trừ khả năng Mỹ - NATO thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ quy mô lớn ở Đông Âu. Khả năng như này tuy hơi khó trở thành hiện thực nhưng lại là dấu hiệu cho thấy một sự thay đổi tương ứng về các học thuyết và kế hoạch quân sự của Nga đối với Mỹ và đồng minh.
Quá trình mở rộng NATO vào sâu bên trong lãnh thổ của Liên Xô trước đây đã bị dừng lại vào năm 2008 ở Kavkaz và năm 2014 ở Ukraine. Tuy nhiên, việc ngừng mở rộng liên minh không có nghĩa là chấm dứt sự hỗ trợ, bao gồm cả hỗ tợ quân sự, từ Mỹ dành cho Kiev và Tbilisi. Trong những điều kiện như vậy, mục tiêu của chính sách Nga là thuyết phục Mỹ rằng việc nước này ủng hộ nguyện vọng của các chính trị gia Ukraine và Gruzia về việc giành lại quyền kiểm soát đối với vùng lãnh thổ không còn thuộc quyền kiểm soát của họ (Donbass ở Ukraine, Abkhaiza và Nam Ossetia ở Gruzi) sẽ vấp phải phản ứng quân sự mạnh mẽ từ Nga mà không bị giới hạn bởi các khu vực xung đột.
Nga và Mỹ coi việc phổ biến vũ khí hạt nhân là điều bất lợi cho bản thân và nguy hiểm cho thế giới. Đây là cơ sở khách quan để hai nước tiếp tục tương tác nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân cho bán đảo Triều Tiên và kiềm chế chương trình hạt nhân của Iran. Tuy nhiên, mức độ sâu sắc và hiệu quả của tương tác này phụ thuộc vào mức độ chú trọng của Mỹ đối với các giải pháp ngoại giao so với sức mạnh quân sự và các hoạt động phá hoại, lật đổ, cũng như việc nước này có đặt mục tiêu thay đổi chế độ hay không.
Việc rút toàn bộ binh lính ra khỏi Afghanistan chắc hẳn sẽ đồng nghĩa với việc Mỹ bớt quan tâm đến khu vực. Nếu điều này là đúng, thì tính cấp thiết và giá trị của các cuộc tham vấn và tương tác giữa Nga và Mỹ về vấn đề Afghanistan sẽ giảm. Ở các khu vực xung đột khu vực khác như Cận Đông, Trung Đông và Bắc Phi, cuộc tham vấn định kỳ có thể hữu ích, ít nhất là để hiểu rõ hơn các ý định của nhau và để tránh xảy ra xô xát ngoài ý muốn. Trong tương lai, hợp tác Nga – Mỹ về các vấn đề khu vực có thể được mở rộng và đi vào chiều sâu.
Cho dù đối đầu nhưng Nga và Mỹ đã cố gắng duy trì hợp tác, ít nhất ở mức độ tối thiểu trong cuộc chiến chống khủng bố. Sự hợp tác này có ý nghĩa thiết thực lâu dài trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố.
Nga và Mỹ là hai cường quốc ở Bắc Cực. Thông qua việc phát triển các hoạt động kinh tế và logistics ở khu vực này cũng như củng cố an ninh quốc gia, Nga đang cố gắng ngăn chặn việc Bắc Cực trở thành địa điểm cạnh tranh khác của Mỹ. Tuy nhiên, Nga sẽ không dễ dàng đạt được mục tiêu này.
So sánh các nguồn lực
Sự ổn định chiến lược trong quan hệ với Mỹ - tức là an ninh của Nga – được đảm bảo bởi các lực lượng vũ trang của Nga, chủ yếu là lực lượng răn đe hạt nhân. Những lực lượng này cần được cải tiến và phát triển không ngừng. Điều này không liên quan đến sự ngang bằng về số lượng và cuộc chạy đua vũ trang không thể tránh khỏi, mà liên quan đến việc duy trì khả năng răn đe đáng tin cậy trong bất kì tình huống chiến lược quan trọng nào. Việc củng cố khả năng này trong quan hệ với Mỹ là điều có ý nghĩa quyết định đối với Nga.
Tuy nhiên, Nga cũng cần chú ý đến các lực lượng vũ trang phi hạt nhân, cụ thể là khả năng hành động hiệu quả của họ trong việc bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích quốc gia ở khu vực dọc biên giới đất nước và ở các khu vực khác nhau trên thế giới khi cần. Các lực lượng vũ trang chuyên nghiệp và cơ động của Nga, vốn được trang bị các hệ thống hỗ trợ và chiến đấu hiện đại và được huấn luyện để có thể tác chiến trong cá điều kiện khác nhau, chính là yếu tố đảm bảo quan hệ  Nga – Mỹ vẫn trong trạng thái hòa bình và Nga có thể tiếp tục theo đuổi một chính sách đối nội và đối ngoại độc lập.
Nga kém xa Mỹ về nguồn lực kinh tế, tài chính, công nghệ và nhân khẩu học. Tuy nhiên, nước này vẫn có thể đảm bảo sự ổn định chiến lược khi theo đuổi chính sách độc lâp. Khác với Liên Xô trước đây, Nga không tự cho mình là một siêu cường với mong muốn kiểm soát một nửa thế giới và không chống lại Mỹ để giành được ảnh hưởng trên thế giới hoặc ở các khu vực riêng lẻ. Nga không tham gia một cuộc chạy đua vũ trang toàn diện mà trong đó họ quyết tâm không chịu thua đối thủ của mình ở bất cứ đâu và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nga tập trung vào lợi ích và an ninh quốc gia của chính mình.
Moskva tuân theo nguyên tắc phát triển năng lực vừa đủ để răn đe và phòng thủ, ủng hộ một giải pháp thuận lợi cho một số nhiệm vụ cụ thể. Với nền kinh tế đứng thứ 12 tính theo giá trị danh nghĩa và thứ 5 tính theo sức mua tương đương cùng với ngân sách quân sự lớn thứ 7 trên thế giới, Nga đang thực hiện biện pháp răn đe hạt nhân đáng tin cậy đối với Mỹ, trong khi vẫn đang tiếp tục hiện đại hóa và hoàn thiện các lực lượng vũ trang của mình. Nga đã đối phó được với chủ nghĩa khủng bố ở Bắc Kavkaz và đang tiến hành chiến dịch quân sự ở Syria. Họ cũng là nước xuất khẩu vũ khí và thiết bị quân sự lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ). Sau cuộc “chia tay” với Ukraine vào năm 2014, khu phức hợp công nghiệp – quân sự của Nga cuối cùng đã có thể tự cung tự cấp.
Những thành công rõ ràng này không che khuất những thách thức đáng kể trong 4 lĩnh vực đã chỉ ra ở trên. Nền kinh tế Nga phải chịu đựng một loạt biện pháp trừng phạt do Mỹ và đồng minh áp đặt, và đã thể hiện khả năng phục hồi khiến nhiều người – chủ yếu là ở Mỹ - phải ngạc nhiên. Bất chấp các lệnh trừng phạt, Nga đã đảm bảo được khả năng tự cung tự cấp về lương thực, điều mà nước này đã mất đi  đầu những năm 1960.
Tuy nhiên, Nga vẫn chưa thể đa dạng hóa nền kinh tế vẫn phải phụ thuộc nhiều vào khu liên hợp dầu khí. Nga đang ảnh hưởng nặng nề của tình trạng thiếu vốn đầu tư, và điều này cản trở sự tăng trưởng kinh tế và lao động. Sau khi tự giải phóng mình khỏi các khoản nợ nước ngoài – nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp – và quyết tâm theo đuổi các chính sách tài chính và kinh tế vĩ mô hợp lý, Nga buộc phải xây dựng quan hệ kinh tế đối ngoại trong một thế giới mà USD vẫn là đồng tiền thống trị toàn cầu.
Về mặt công nghệ, Nga mới bắt đầu tiến hành thu hẹp khoảng cách, mà vốn đã tăng lên rất nhiều kể từ khi Liên Xô sụp đổ, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ với Mỹ và các nước tiên tiến khác. Ban lãnh đạo Nga đã tập trung vào công nghệ kỹ thuật số, lĩnh vực mà nước này đã có một số nền tảng nhất định. Thế nhưng trong các lĩnh vực quan trọng như trí tuệ nhân tạo, công nghệ viễn thông và kỹ thuật sinh học, Nga vẫn thua xa Mỹ.
Trong lĩnh vực truyền thống đại chúng, trong những năm gần đây Nga đã cố gắng tạo ra một hệ thống quản lý nhà nước hiệu quả đối với thông tin trong nước và quốc tế. Các phương tiện thông tin đại chúng chủ đạo trong nước (chủ yếu là truyền hình) không chỉ cung cấp thông tin về chính sách của Nga và các nước khác trên thế giới cho số đông dân chúng, mà còn phản ứng theo thời gian thực trước những tình huống có thể thay đổi nhanh chóng, định hình quan điểm chính thức cho các sự kiện và đưa ra phản ứng kịp thời trước những lập luận của phe đối lập trong nước, những người hoài nghi và các thế lực ngoại bang, kể cả Mỹ. Đối với phần lớn dân chúng cuộc đấu khẩu gay gắt trên mạng, nơi mà chiến thắng luôn thuộc về Chính quyền Nga, là liều thuốc hữu hiệu chống lại những lời tuyên truyền mang tính thù địch chịu nhiều nặng nề thiệt hại trong quá khứ. Trên thực tế, Đài tiếng nói Mỹ (VOA), Đài châu Á tự do (RFA) và các cơ quan ngôn luận khác phục vụ mục đích tuyên truyền của Mỹ không có cơ hội phát huy hiệu quả ở nước Nga hiện đại.
Đồng thời, Nga đã tái cấu trúc thành công hệ thống thông tin nhằm mục tiêu vào các nước khác, kể cả Mỹ. Thay vì tung hô thành công của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối ngoại hòa bình của Nga dưới thời Liên Xô, các phương tiện truyền thông hiện đại của nước này lại tập trung vào những điểm nhức nhối của xã hội Mỹ và chính sách của nhà cầm quyền. Phát biểu trong những trường hợp này là những người Mỹ từng thất bại trong việc xâm nhập các phương tiện  truyền thông chính thống của đất nước họ. Trên thực tế, Nga đối phó với Mỹ bằng chính sách thông tin mà Mỹ đã theo đuổi để đối phó với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, làm rung chuyển kẻ thù từ bên trong bằng chính tiếng nói của họ.
Ngày nay, Russia To day và Sputnik được xem là mối đe dọa với sự ổn định này của xã hội Mỹ.
Nhà nước Nga, cùng với các cấu trúc phi nhà nước có xu hướng thân thiện, đang tích cực sử dụng mạng xã hội cho những mục đích tương tự. Mỹ đã coi đây là hành vi can thiệp vào cuộc bầu cử ở nước này. Trên thực tế, không có bất kỳ sự kiện nào được báo cáo cho thấy sự xâm nhập của các điệp viên Nga vào hệ thống kiểm phiếu trong các cuộc bầu cử của Mỹ. Nga chủ yếu gây ảnh hưởng đến dư luận và tình hình ở quốc gia mục tiêu bằng các hình thức khác nhau. Đây chắc chắn là một cuộc chiến thông tin, nhưng nó đã bắt đầu từ rất lâu trước khi có sự xuất hiện của mạng xã hội. Với sự tiến bộ của công nghệ, các kỹ thuật được sử dụng trong cuộc chiến này ngày càng tinh vi. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau là phương thức chủ yếu của Nga.
Điều này giúp Nga bù đắp phần nào sự thiếu hụt về khả năng vận động hành lang đối với những người gốc Nga ở Mỹ. Hơn một triệu người gốc Nga đang sống ở Mỹ, nhưng hầu hết trong số họ đều có định hướng rõ ràng là hòa nhập vào xã hội Mỹ chứ không phải thúc đẩy lợi ích của quê hương họ trên đất Mỹ. Ngược lại: nhiều người chỉ trích gay gắt hoặc thậm chí thù địch đối với các chính sách của giới lãnh đạo Nga. Cũng cần phải lưu ý rằng kể từ cuộc chiến chống lại sự xâm nhập của cộng sản, nhất là trong chiến tranh Lạnh, người Nga, đặc biệt là những người có quan hệ với chính phủ Nga, đã bị Mỹ nghi ngờ. Các nỗ lực nhằm tạo dựng hành lang cho Nga ở Mỹ đã được thảo luận sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng chúng không có cơ hội thành công do Moskva từ chối công nhận vai trò lãnh đạo của Washington và do đó vẫn dừng ở các cuộc đối thoại.
Đồng thời, bên trong nước Nga có một nhóm doanh nhân, chính trị gia, trí thức và nhà hoạt động có tầm ảnh hưởng lớn, có nhiều tài sản hoặc lợi ích quan trọng ở Mỹ và có quan hệ mật thiết với các đối tác Mỹ. Nhóm tinh hoa này chịu nhiều thiệt thòi về tài chính trong cuộc đối đầu giữa hai nước hiện nay. Vì vậy, việc những người này đổ lỗi cho giới lãnh đạo Nga, trước hết là Tổng thống Putin, về tình hình hiện tại là lẽ thường tình. Các thành viên cấp cao của nhóm này không dám công khai phản đối chính sách đối ngoại của Điện Kremlin, nhưng họ hy vọng rằng việc Nga hòa giải với Mỹ, ngay cả trên cơ sở nhượng bộ đáng kể đối với Mỹ, sẽ khả thi bất cứ khi nào Putin từ bỏ quyền lực. Đây là một thách thức đáng kể đối với chính sách đối ngoại của Điện Kremlin không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai.
Nga cũng thiếu sự hỗ trợ đáng kể trong giới kinh tế Mỹ. Quan hệ kinh tế Nga – Mỹ còn hạn chế. Trong thập kỷ qua, kim ngạch thương mại song phương dao động từ 20 – 35 tỷ USD. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, doanh nghiệp Mỹ nhận thấy việc thu hút các chuyên gia có trình độ cao từ Nga – ví dụ, toán học, hóa học và nhà sinh học, có lợi hơn việc đầu tư vào các doanh nghiệp ở Nga. Thị trường tương đối nhỏ và nghèo nàn của Nga cũng không đặc biệt hấp dẫn đối với các doanh nghiệp Mỹ. Hy vọng từ đầu những năm 2000 về việc hình thành quan hệ đối tác năng động Nga – Mỹ dựa trên sự tham gia của các công ty Mỹ vào các dự án ở Nga và việc xuất khẩu dầu mỏ của Nga sang Mỹ đã nhanh chóng tiêu tan. Trong tương lai gần, quan hệ kinh tế giữa Nga và Mỹ sẽ vẫn bị hạn chế đáng kể do các lệnh trừng phạt ngày càng gia tăng và sự đối đầu ngày càng gay gắt.
Lợi thế của Nga là một cơ cấu quyền lực cho phép ban lãnh đạo nước này nhanh chóng đưa ra các quyết định mà hầu hết là thống nhất, kể cả những quyết định bất ngờ đối với các nước khác. Tuy nhiên, lợi thế này không đảm bảo tính đúng đắn của các bước đang được thực hiện và có thể là một bất lợi nghiêm trọng trong trường hợp các quyết định được đưa ra không thể hiện quyết tâm của ban lãnh đạo.
Chiến lược
Trước thái độ thù địch công khai của Mỹ, mục tiêu chiến lược trước mắt của Nga trong quan hệ với nước này là quản lý sự đối đầu và đặc biệt là sự ngăn chặn một cuộc đụng độ vũ trang giữa hai nước. Nga có thể đạt được mục tiêu này bằng cách duy trì sự ổn định chiến lược dựa trên khả năng răn đe hạt nhân, các thỏa thuận có hiệu lực trong việc điều chỉnh sự tiến triển của các kho vũ khí và hoạt động quân sự, và hoạt động liên tục, thông suốt của các kênh liên lạc giữa hai bên trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự và tình báo.
Việc xây dựng các mục tiêu tích cực theo định hướng của Mỹ là rất khó. Nga đã sẵn sàng đối thoại với Mỹ về nhiều vấn đề khác nhau dựa trên sự cân bằng về lợi ích giữa hai bên. Đối thoại sẽ không phải là điều quá khó. Vấn đề ở đây là việc Washington trong tương lai gần bắt đầu đối thoại, và thậm chí là kí kết các thỏa thuận công bằng, với Moskva đồng nghĩa với việc chấp nhận nhượng bộ dù điều đó là phi lý, và ngầm từ chối chỉ trích chính sách của Nga ở Ukraine cũng như việc sáp nhập Crimea và can thiệp vào tình hình nội bộ của Mỹ.
Giới lãnh đạo Mỹ sẽ tiếp tục lập trường này ít nhất trong trung hạn. Đối với Nga, việc đơn phương nhượng bộ Mỹ với hi vọng làm dịu áp lực của Washington đối với Moskva không chỉ là hành động ngây thơ mà còn tai hại. Sự nhượng bộ chỉ khiến áp lực ở mọi hướng tăng lên. Việc đầu hàng trong lĩnh vực chính sách đối ngoại có thể sẽ dẫn đến sự sụp đổ của Chính quyền Nga hiện tại.
Tất nhiên, khó có thể nói rằng Nga tham gia mặt trận chính sách đối ngoại cùng Mỹ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc. Một thay đổi như vậy sẽ khiến  Nga mất đi sự cân bằng trong chính sách đối ngoại. Mối quan hệ đối tác chiến lược và sự tương tác với Bắc Kinh là thành tựu quan trọng nhất cả chính sách đối ngoại hiện tại của Nga trong tương lai gần.
Đồng thời, Nga hiện không quan tâm đến việc kí kết một liên minhh quân sự với Trung Quốc để chống lại Mỹ. Một liên minh như vậy sẽ tạo ra nhiều vấn đề và làm mất đi sự linh hoạt của các mối quan hệ hiện tại giữa Nga và Trung Quốc vốn cần thiết cho cả hai bên. Mặc dù quan hệ căng thẳng với Washington có ảnh hưởng nhất định đến sự tương tác Nga – Trung, nhưng yếu tố quyết định sự tương tác này không phải Mỹ mà là lợi ích quốc gia của Nga và Trung Quốc.
Trong mọi trường hợp, Nga nên phân tích kỹ lưỡng diễn biến của các cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội và ý thức hệ ở Mỹ, cũng như những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Do đó, chiến lược cần phải linh hoạt. Tuy nhiên, không nên ảo tưởng: Ngay cả trong dài hạn, Mỹ cũng sẽ không trở thành một cường quốc bình thường nếu Nga từ bỏ thành phần ý thức hệ trong chính sách đối ngoại của mình. Điều đó có ý nghĩa là Mỹ sẽ không bao giờ ngừng can thiệp vào quan hệ của Nga với các nước khác, cũng như vào các vấn đề nội bộ của Nga. Vào thời điểm chuyển giao quyền lực ở Nga, sự can thiệp như vậy sẽ được tăng cường tối đa.
Chiến lược của Nga không nên có chỗ cho mong muốn hão huyền là khôi phục các mối quan hệ chiến lược và địa chính trị đặc biệt, như với Mỹ trong những năm 1970 -1980. Xu hướng xích lại gần nhau sau Chiến tranh Lạnh là điều được Mỹ yêu thích hơn cả trong một thời gian dài, nhưng họ chưa bao giờ có mong muốn hợp tác và tương tác một cách bình đẳng như mong muốn của Nga. Vì vậy, điều nên làm là khép lại giai đoạn này. Hoài niệm và hiện thực lịch sử khác xa với tưởng tượng.
Trong nhiều thập kỉ sau Chiến tranh Lạnh, chính trường Nga được thúc đẩy bởi mong muốn khôi phục quan hệ cường quốc bình đẳng với Mỹ. Các chính trị gia của Nga đã bắt chước người Mỹ trong lời nói và hành động. Ngoại giao cấp cao và quan hệ cá nhân giữa nguyên thủ hai nước được chú trọng. Các nhà lãnh đạo Nga đã nỗ lực nâng cao hiểu biết của Mỹ về Nga bằng cách thông qua các nhà báo hàng đầu truyền đi các tín hiệu khác nhau mà ít nhiều được công chúng Mỹ đón nhận. Điện Kremlin hy vọng các đối thủ của họ sẽ tỉnh táo, thấu hiểu và đồng ý tiếp xúc. Và khi Washington trở thành đối tác đáng tin cậy của Moskva, Nga sẽ được coi là quốc gia bình đẳng với Mỹ.
Tuy nhiên, khi nhận ra rằng những hi vọng ngày là vô ích, Nga đã chuyển từ chiến thuật phòng ngự sang tấn công. Mỹ đã trở thành mục tiêu của các hoạt động thông tin của Nga. Những hoạt động này đã gây ra tiếng vang lớn cùng với cuộc khủng hoảng nội bộ ở Mỹ. Chứng hoang tưởng, vốn đã ảnh hưởng đến một bộ phận đáng kể trong giới chính trị Mỹ, cũng bắt nguồn từ đó. Giới chính trị Mỹ bắt đầu lo sợ về ảnh hưởng của Nga – mặc dù trên thực tế ảnh hưởng thực sự của Moskva đối với chính sách của Washington vẫn chưa tăng lên. Điều này được thể hiện rõ nét trong một chiến dịch dài hạn của lưỡng đảng ở Mỹ nhằm gây áp lực đối với Nga.
Cuộc chiến phức hợp giữa Mỹ và Nga đang trên đà phát triển, tuy rằng giai đoạn quyết định của nó vẫn còn cách đây rất ca. Người Nga cần hiểu rõ rằng mặt trận chính trong cuộc chiến này (và ngay cả trong cuộc chiến vừa qua) chính là mặt trận trong nước. Tuy nhiên, cuộc chiến này không chỉ đặt ra các mối đe dọa mà còn mở ra nhiều cơ hội.
Bỏ qua giai đoạn liên minh ngắn ngủi mang tính chất bắt buộc trong Chiến tranh thế giới thứ II, lịch sử cho thấy đối với Nga, tình trạng đối đầu với Mỹ nhìn chung dễ chịu hơn tình trạng đối tác. Nga có xu hướng khẳng định vị thế bình đẳng trong bối cảnh đối đầu, nhưng lại có xu hướng phục tùng trong sự bao bọc của một đối tác mạnh hơn. Vì vậy, việc nhìn nhận mối quan hệ với Mỹ trong tương lai  gần với thái độ lạc quan – yếu tố kích thích sự phát triển của Nga – là động thái hợp lý đối với nước này.
Trong khi duy trì mong muốn độc lập về chính sách đối ngoại bất chấp sự thống trị của Mỹ, từ chối đơn phương nhượng bộ với cường quốc số 1 thế giới và tìm cách làm suy yếu áp lực của nước này đối với mình, Nga không nên cố gắng can thiệp vào đời sống chính trị hay gây ảnh hưởng đến các vấn đề trong nước của Mỹ, vì kinh nghiệm cho thấy điều này không mang lại kết quả tích cưc cho Nga. Chúng ta phải để cho các cuộc khủng hoảng nội bộ của Mỹ diễn ra một cách tự nhiên theo chiều hướng vốn có của nó.
Ngoài ra, trong khi tăng cường khả năng răn đe hạt nhân như là giải pháp duy nhất để đảm bảo an ninh quốc gia trong quan hệ với Mỹ, Nga không nên gây thêm rắc rối cho nước này ở trong nước và trên trường quốc tế. Sự kiềm chế của Nga sẽ không chỉ làm giảm áp lực của Mỹ mà còn tiết kiệm các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển của chính họ.
Mỹ vẫn là nhà lãnh đạo của thế giới phương Tây, nhưng mức độ và phạm vi của sự lãnh đạo đó đang thay đổi. Bên trong thế giới phương Tây, Mỹ vẫn đứng đầu một nhóm quốc gia nói tiếng Anh có quan hệ chặt chẽ với họ bao gồm Anh, Canada, Australia và New Zealand. Nhóm các đồng minh thân cận nhất này có những lợi ích cụ thể trong mối quan hệ vớ từng quốc gia trong số này. Tuy nhiên, quan hệ của Nga với các nước này sẽ phụ thuộc phần lớn vào quan hệ của Nga với Mỹ.
 
HỢP TÁC TRUNG - NGA TẠI CHÂU PHI
 
Mới đây, Hội đồng Nga về các vấn đề quốc tế (RTAC) có bài phân tích xung quanh việc Nga và Trung Quốc có lợi ích chung trên toàn cầu và ở châu Phi với nội dung như sau:
Nga trở lại châu Phi tương đối muộn so với Trung Quốc, nhưng Moskva không có đủ nguồn lực để đầu tư vào châu Phi. Sự cạnh tranh giữa các cường quốc tạo ra những điều kiện mà Nga không thể không chú ý đến châu Phi. Tuy vậy, Nga và Trung Quốc có thể hợp tác hiệu quả ở châu Phi, và sẽ không tranh giành ảnh hưởng tại lục địa này. Phát triển công nghiệp hoá và đô thị hoá ở châu Phi đòi hỏi phải thu hút các nguồn lực và sự trợ giúp từ bên ngoài, bao gồm cả Nga và Trung Quốc.
Lợi ích chung của Nga và Trung Quốc tại châu Phi
Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Nga và Trung Quốc đã đặt nền tảng chính trị vững chắc cho hợp tác Trung - Nga ở châu Phi. Ở cấp độ chính trị, Nga và Trung Quốc không phải là đối thủ chiến lược. Hai nước đều coi châu Phi là một yếu tố quan trọng để đạt được các mục tiêu chiến lược quốc gia của nhau và thiết lập một trật tự thế giới công bằng, hợp lý và đa cực.
Thứ hai, cả Nga và Trung Quốc đều rất coi trọng việc duy trì ổn định ở châu Phi. Hoà bình và ổn định ở châu Phi là điều kiện tiên quyết để xây dựng các mối quan hệ chính trị và kinh tế giữa Nga và châu Phi cũng như giữa Trung Quốc và châu Phi. Nga và Trung Quốc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ của châu Phi và không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước châu lục này. Hai nước đang có nhiều nỗ lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội của châu Phi.
Thứ ba, Nga và Trung Quốc cần hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố. Hai nước đều phải đối mặt với nguy cơ khủng bố, và cuộc chiến chống đòi hỏi hợp tác quốc tế. Trong những năm gần đây, chủ nghĩa khủng bố ở châu Phi đang trên đà phát triển, vì vậy Nga và Trung Quốc cần nỗ lực để tăng cường hợp tác chống khủng bố châu Phi.
Cạnh tranh Trung - Nga ở châu Phi
Trong quá trình phát triển quan hệ hợp tác cùng có lợi với châu Phi, sự ganh đua giữa Nga và Trung Quốc trong một số lĩnh vực nhất định là không thể tránh khỏi.
Đầu tiên là lĩnh vực kinh tế và thương mại. Sự khác biệt về cơ cấu thương mại Nga - châu Phi và Trung Quốc - châu Phi là tương đối lớn, vì vậy cạnh tranh giữa Nga và Trung Quốc về mặt này chỉ xuất hiện trong một số lĩnh vực nhất định. Kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi lớn hơn nhiều so với giữa Nga và châu Phi, và khả năng Nga có thể cạnh tranh ngang ngửa với Trung Quốc về kinh tế và thương mại tại châu Phi là không thực tế.
Thứ hai là lĩnh vực năng lượng. Có sự cạnh tranh nhất định giữa Nga và Trung Quốc trong lĩnh vực năng lượng ở châu Phi. Tuy nhiên, Nga và Trung Quốc đặt ra các mục tiêu khác nhau và phải giải quyết các vấn đề khác nhau nên hai nước có nhiều cơ sở hợp tác trong lĩnh vực này hơn là cạnh tranh.
Thứ ba là hợp tác kỹ thuật - quân sự. Trong một thời gian dài, các công nghệ quân sự của Nga đã vượt xa các công nghệ của Trung Quốc. Do đó, trong lĩnh vực bán vũ khí và thiết bị quân sự, Nga đang có sức cạnh tranh lớn hơn so với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng về công nghệ quân sự của Trung Quốc sẽ làm gia tăng cạnh tranh với Nga trong một số lĩnh vực của thị trường vũ khí ở châu Phi, nhưng sự cạnh tranh này sẽ dịu đi.
Hợp tác Trung - Nga ở châu Phi
Có 7 lĩnh vực hợp tác chính giữa Nga và Trung Quốc ở châu Phi là: y tế công cộng, nông nghiệp, công nghiệp hoá, đô thị hoá, thương mại quốc tế, chính trị và an ninh và quan hệ với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Hợp tác trong các lĩnh vực này có thể được thực hiện trong khuôn khổ các dự án ngắn hạn và các chương trình dài hạn. Hiện có 4 dự án ngắn hạn.
Sức khoẻ cộng đồng và cuộc chiến chống đại dịch COVID -19
Các dịch bệnh như sốt rét, Ebola, HIV/AIDS, virus Zika và những bệnh dịch khác gây ra mối đe doạ đối với sức khoẻ của người dân châu Phi. Đây là lý do tại sao việc xây dựng một hệ thống chăm sóc sức khoẻ của châu Phi là một nhiệm vụ cấp bách. Mục tiêu chính của hệ thống chăm sóc sức khoẻ phải là kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh, chứ không chỉ tập trung vào điều trị. Sau cuộc cách mạng tháng Mười ở Nga (năm 1917), một hệ thống chống dịch đã được thiết lập, bao trùm toàn bộ đất nước Nga với lãnh thổ rộng lớn, dân số đa sắc tộc và những truyền thống và lối sống riêng. Hệ thống kiểm soát và phòng chống dịch bệnh này đã loại bỏ thành công một số bệnh dịch. Trung Quốc cũng đã áp dụng mô hình kiểm soát dịch tễ toàn quốc được gọi là Trạm kiểm dịch. Mô hình y tế dự phòng này có sự tham gia của các nhân viên y tế công cộng để tiêm chủng cho trẻ em tại nhà. Đối với châu Phi, mô hình kiểm soát dịch của Nga dường như là tối ưu, vì Nga và Trung Quốc đã có nhiều kinh nghiệm triển khai trên thực tế. Trước mối đe doạ của đại dịch COIVD-19, đã đến lúc Nga và Trung Quốc hợp tác để giúp châu Phi thiết lập một mô hình phòng ngừa kiểm soát dịch bệnh.
BRICS và Ngân hàng phát triển mới (NDB)
Nga,Trung Quốc và Nam Phi nhất trí rằng nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) và Ngân hàng phát triển mới là cơ hội chiến lược để hợp tác và phát triển chặt chẽ hơn. BRICS tạo điều kiện cho Nga, Trung Quốc và các nước châu Phi hợp tác với nhau. Nga, Trung Quốc và Nam Phi coi BRICS là một cơ chế mới có đặc trưng là các thể chế đa trung tâm.Tổ chức này đem lại một nền tảng mới để thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia châu Phi hơn. Quan trọng hơn, BRICS có thể thiết lập một hệ thống trao đổi tiền tệ quốc tế mới để tránh rủi ro từ việc các cơ quan tư pháp Mỹ có thẩm quyền vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Tận dụng vị trí quan trọng của mình trong các tổ chức đang phát triển như BRICS, Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) và liên minh kinh tế Á- Âu (EAEU), Nga có thể phát triển một phương pháp tiếp cận thực tiễn mới để giải quyết nhiều vấn đề quốc tế, bao gồm cả lục địa châu Phi. Nga có kinh nghiệm về ngoại giao đa phương ở Trung Đông, trong đó nước này không chỉ duy trì mối quan hệ mang tính xây dựng với các bên tham chiến trong nhiều cuộc xung đột mà còn thúc đẩy các bên tham gia có lập trường không thể hoà giải ngồi vào bàn đàm phán, đem lại kết quả ấn tượng. Những phương pháp này cũng có thể phù hợp với châu Phi.
Nhiều quốc gia châu Phi đang chờ đợi các cơ hội phát triển kinh tê qua khuôn khổ BRICS, vì người ta mong đợi rằng Nam Phi sẽ trở thành " cửa ngõ" cho các quốc gia châu Phi khác và đóng vai trò là "nhà vận động hành lang" bảo vệ lợi ích của "các nước anh em" châu Phi. Tiềm năng này vẫn chưa được khai thác.
Hỗ trợ giáo dục, xã hội và nhân đạo
Ở châu Phi cần đẩy mạnh cải cách kinh tế - xã hội, chủ yếu để tạo việc làm mới cho 29 triệu người châu Phi sẽ đến tuổi lao động hàng năm tới năm 2030. Điều quan trọng là thanh niên châu Phi ở cả hai giới đều có thể tiếp cận việc làm mới: khoảng 42% thanh niên có việc làm ở châu Phi sống với mức lương dưới 1,9 USD/ngày và chỉ 12% phụ nữ có việc làm - được trả lương. Mặc dù người châu Phi hào hứng với kinh doanh, nhưng nhiều doanh nhân lại thiếu kiến thức cơ bản. Ví dụ, hầu hết các doanh nhân trẻ ở Coote d'Ivoire và Madagascar thiếu kiến thức và năng lực để đảm bảo sổ sách kế toán, sử dụng tư liệu sản xuất và các công cụ lập kế hoạch dài hạn, xác định các tiến bộ công nghệ liên quan và phát triển vốn nhân lực.
Tương tác giữa Nga và Trung Quốc trong lĩnh vực có thể mang lại cho châu Phi những cơ hội cần thiết để tạo ra bước đột phá. Tăng cường tương tác và hợp tác giữa các thế hệ tương lai và phát triển nguồn nhân lực toàn cầu có thể là một thành phần quan trọng để mở rộng quan hệ quốc tế. Bằng cách này hay cách khác, tất cả các vấn đề địa chính trị chưa được giải quyết sẽ chỉ còn trong quá khứ, bất kể chúng có thể đã được giải quyết ở mức độ nào. Thế hệ trẻ của tương lai sẽ tạo ra những mô hình xã hội dân sự mới. Đây là lý do tại sao các bên tham gia hiện nay ở châu Phi, bao gồm cả Nga, cần đặt cược vào tương lai.
Nga và Trung Quốc có thể hợp tác để thiết lập nhiều cơ sở giáo dục đại học và dạy nghề hơn ở châu Phi. Các cơ sở giáo dục này sẽ giúp sinh viên từ các nước châu Phi đạt được các kỹ năng cần thiết cho sự phát triển hiện đại.
Có hai lĩnh vực đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của lục địa này- giáo dục và lương thực. Nếu các quốc gia châu Phi thống nhất không chỉ về việc mua sắm công nghệ mới mà còn về đào tạo để triển khai các công nghệ này, họ sẽ tạo ra thêm nhiều việc làm mới và cải thiện kỹ năng chuyên môn của lực lượng lao động trong khu vực.
An ninh lương thực là một lĩnh vực hợp tác quan trọng không kém với các quốc gia khác. Để nuôi sống 1,3 tỷ người, châu Phi cần phải tăng sản lượng lương thực. Quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp thâm canh sẽ đòi hỏi các phương pháp mới, máy móc và thiết bị, phân bón, phòng trừ sâu bệnh hoá học và bảo tồn cây trồng. Khi mối quan hệ giữa châu Phi và thế giới bên ngoài thay đổi, chúng ta có thể tự tin rằng các nước châu Phi sẽ tạo ra và sản xuất tại chỗ hầu hết các thành phần cơ bản để phục vụ sản xuất và chế biến nông sản, tạo cơ hội cho các khoản đầu tư và quan hệ đối tác có lợi.
Hoạt động chống khủng bố và giữ gìn hoà bình
Đối với tất cả các bên tham gia trong khu vực, trở ngại chính cho dự án với lục địa đen là những rủi ro liên quan đến bất ổn ở một số khu vực nhất định. Sau thành công chiến lược ở Syria, Nga ngày càng được biết đến với vai trò là "nước xuất khẩu an ninh". Đồng thời, các nước châu Âu cũng đã bày tỏ sự quan tâm đến việc bảo trợ hoạt động gìn giữ hoà bình và sự hiện diện ở châu Phi. Cũng cần lưu ý rằng Trung Quốc gần đây đã tăng cường đáng kể năng lực gìn giữ hoà bình. Số liệu thống kê về việc triển khai lực lượng gìn giữ hoà bình của 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như sau: Trung Quốc - 2151 người, Pháp -741, Anh - 571, Nga -71, Mỹ - 35.
Những thực tiễn tốt nhất tích luỹ được của lực lượng gìn giữ hoà bình của Nga trong các sứ mệnh gìn giữ hoà bình, bao gồm các thành phần chính trị, quân sự, ngoại giao, cảnh sát, địa lý... Các cuộc tập trận chung, đào tạo lực lượng châu Phi, đào tạo kỹ năng đàm phán và ngoại giao cần thiết để giải quyết hoà bình các tranh chấp đều sẽ giúp căng thẳng và thiết lập hợp tác hoà bình giữa các quốc gia. Nga có thể đóng vai trò là bên khởi xướng và cung cấp nền tảng cho đối thoại về đảm bảo an ninh ở châu Phi, cũng như truyền bá kinh nghiệm của mình trong khuôn khổ hợp tác quốc tế ở châu lục này.
Nga cần thu hút các nhóm xử lý khủng hoảng khác nhau tham gia đối thoại về các vấn đề an ninh châu Phi, cũng như thiết lập hợp tác chặt chẽ với các cơ chế mới thành lập như Nhóm giải quyết xung đột, hoà bình và an ninh trong Liên minh châu Phi. Việc này cũng bao gồm các vấn đề hợp tác để đảm bảo tính vẹn toàn và phổ biến của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, lệnh cấm vũ khí sinh học, cũng như hợp tác để ngăn chặn một cuộc chạy đua vũ trang ngoài không gian.
Ngoài ra, Nga và Trung Quốc có thể tăng cường hợp tác thông qua chương trình dài hạn.
Các tổ chức quốc tế và các thể chế quốc tế đa phương
Sự phối hợp hành động ngày càng tăng giữa Nga, Trung Quốc và châu Phi trong các tổ chức quốc tế sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho các nỗ lực nhằm hình thành một thế giới đa cực.Cả ba bên đều chịu sức ép của phương Tây. Cả Nga, Trung Quốc và châu Phi đều hứng chịu chỉ trích về các chính sách nhân quyền cũng như ít can dự vào các thể chế quốc tế hiện hành. Nga và Trung Quốc có thể củng cố năng lực của ba bên trong Liên hợp quốc và tăng cường vai trò của Liên minh châu Phi. Ngoài ra, Nga và Trung Quốc có thể tăng cường tham gia Diễn đàn liên minh châu Phi với mục tiêu phát triển hợp tác khu vực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội.
Đối với một số quốc gia từng đô hộ các nước châu Phi trong quá khứ, hợp tác với Nga và Trung Quốc có thể trở thành một cơ hội bổ sung (và đôi khi là duy nhất) cho phép họ phát triển các mối quan hệ kinh doanh và chính trị đa dạng với các nước châu Phi.Việc hình thành các mối quan hệ đối tác và liên minh đa phương dưới sự bảo trợ của Nga về các vấn đề cụ thể trong nhiều trường hợp sẽ nâng cao hiệu quả của các chiến lược quốc tế. Thảo luận về các chủ đề liên quan tới châu Phi với các chuyên gia hàng đầu nước ngoài sẽ giúp làm rõ các vấn đề tiềm ẩn và thách thức cạnh tranh khi hợp tác với châu lục này, chủ yếu dựa vào nhiệm vụ của chính các đối tác châu Phi.
Chúng ta cũng không nên bỏ qua những cơ hội để tăng cường quản trị toàn cầu do cải cách và mở rộng tư cách thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thông qua sự tham gia rộng rãi hơn của các quốc gia châu Phi trong cơ chế này. Cách tiếp cận phối hợp lập trường của Nga và Trung Quốc có thể có tầm quan trọng lớn đối với tất cả các bên, bao gồm cả các nước châu Phi.
Hợp tác trong khuôn khổ dự án “Con đường tơ lụa”
Con đường tơ lụa xuất phát từ Trung Quốc qua Ấn Độ , Tiểu Á, xuyên suốt Lưỡng Hà, đến Ai Cập, lục địa châu Phi, Hy Lạp, La Mã và Anh. Năm 2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đề xuất các dự án như: " Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa" (qua Trung Á và châu Âu) và "Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21"(qua biển Nam Trung Hoa/Biển Đông và Ấn Độ Dương đến Trung Đông và châu Âu). Các sáng kiến này nhằm hồi sinh các tuyến đường thương mại cổ xưa và củng cố các tuyến đường hiện có. Bắc Kinh đã liên kết hai dự án này thành Sáng kiến "Vành đai và Con đường " ( BRI). Tại hội nghị Davos thuộc Diễn đàn kinh tế thế giới (VEF) năm 219, Trung Quốc chính thức công bố thành lập và tài trợ cho Quỹ Vành đai và Con đường châu phi. Nam Phi đã ký bản ghi nhớ với Trung Quốc  về BRI và là một thành viên của nhóm BRICS cùng với Nga, Trung Quốc, BraZil và Ấn Độ. Quỹ sẽ tham gia đầu tư vào châu Phi, bao gồm đầu tư chung vào các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, công nghệ, thương mại điện tử trí tuệ nhân tạo (AI) và tăng cường hiệu quả khai thác ở châu Phi. Ngoài ra, quỹ sẽ đóng vai trò là nền tảng hợp tác cho các lĩnh vực kinh doanh của Trung Quốc và châu Phi.Sáng kiến " Vành đai và Con đường" không chỉ có các kế hoạch đầy tham vọng cho không gian Đại Á - Âu, mà còn bao gồm hoạt động thực tiễn quy mô lớn, qua đó góp phần đưa khu vực Á - Âu ngày càng được công nhận trên trường quốc tế. Nga hoàn toàn ủng hộ sáng kiến này và hợp tác trong khuôn khổ của nó có thể mở ra một trang mới trong quan hệ Trung Quốc - Nga - châu Phi.
Công nghiệp hoá và đô thị hoá
Công nghiệp hoá và đô thị hoá là những ưu tiên phát triển của châu Phi và nhận được nhiều khoản đầu tư của Trung Quốc trong vài thập niên gần đây, bao gồm đầu tư trong khuôn khổ BRI (như dự án xây dựng tuyến đường sắt giữa Nairobi và Mombasa). Các khoản đầu tư trên đang đóng góp to lớn vào quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá của châu Phi. Nga có kinh nghiệm và công nghệ để thúc đẩy công nghiệp hoá, đặc biệt là công nghiệp nặng vốn là nền tảng của quá trình công nghiệp hoá. Moskva đã đầu tư vào một số dự án lớn, như xây dựng các nhà máy phân bón ở châu Phi. Nga và Trung Quốc có thể hợp tác để hỗ trợ công nghiệp hoá và đô thị hoá ở châu Phi thông qua chuyển giao công nghệ và thiết bị trong sản xuất nông nghiệp, khai mỏ, linh kiện ôtô, hoá chất, công nghệ thông tin và các dịch vụ liên quan.
Việc vị thế của Boeing suy yếu và các vấn đề kỹ thuật của máy bay hãng hàng không này đã mở ra cơ hội cho Nga và Trung Quốc hợp tác cung cấp máy bay cho các nước châu Phi. Ngoài ra, hệ thống định vị  Beidou (Bắc Đẩu) của Trung Quốc và Glonass của Nga có thể cung cấp dịch vụ điều hướng cho châu Phi.
Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và số hoá
Nga và Trung Quốc có thể hợp tác để cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng của châu Phi. Những thách thức mà các nước và người dân châu Phi phải đối mặt do cơ sở hạ tầng yếu kém là rất lớn. Chúng gây bất lợi cho cuộc sống của người dân và việc cung cấp các dịch vụ trong trường hợp thiên tai.
Cuộc các mạng công nghệ đang diễn ra ở châu Phi mở ra những cơ hội mới cho sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa châu Phi và các quốc gia mong muốn đầu tư vào các thị trường đầy triển vọng. Châu Phi sẽ thay đổi nhiều hơn nữa trong thập kỷ tới. Thứ nhất, việc các nước châu Phi giới thiệu công nghệ mới sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn châu lục. Thứ hai, sự chuyển đổi của châu Phi tạo ra những lĩnh vực mới đầy hứa hẹn cho công nghệ và kỹ thuật của nước ngoài, qua đó thu hút đầu tư nước ngoài. Các quốc gia châu Phi chiếm ít nhất một nửa danh sách 15 quốc gia phải chịu tác động nhiều nhất từ gián đoạn hoạt động cơ sở hạ tầng. Theo Ngân hàng Phát triển châu Phi, châu lục này sẽ cần từ 130-170tỷ USD mỗi năm để xử lý các vấn đề cơ sở hạ tầng của châu Phi. Nga và Trung Quốc có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và duy trì sự ổn định và tin cậy của cơ sở hạ tầng.
Nhà máy điện hạt nhân và lưới điện châu Phi
Tiềm năng hợp tác đáng kể được mở ra từ tương tác công nghệ trong các lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn như năng lượng, cơ sở hạ tầng, viễn thông và số hoá nền kinh tế. Nga sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác trong việc an ninh năng lượng, bao gồm đa dạng hoá các nguồn năng lượng, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và thực hiện các dự án chung về công nghệ hạt nhân dân dụng ở châu Phi. Hợp tác cùng có lợi trong ngành dầu khí sẽ được duy trì. Hội nghị thượng đỉnh Nga - châu Phi năm 2019 đã thảo luận về việc thành lập các trung tâm nghiên cứu hạt nhân ở một số quốc gia châu Phi. Nga đi đầu trong việc phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hoà bình, hợp tác với các đối tượng trong sản xuất và cung cấp các thành phần và thiết bị riêng lẻ, cũng như với các công ty toàn cầu trong ngành năng lượng hạt nhân. Các dự án trong lĩnh vực này khá tốn kém và không dễ tìm được nguồn vốn cho chúng.
Ngoài ra, bản thân các quốc gia châu Phi không có khả năng đồng tài trợ cho các dự án trên và rất khó để các quốc gia có mức nợ chính phủ đáng kể có được các khoản vay từ các tổ chức phát triển quốc tế. Tuy vậy, bất chấp những bất ổn còn tồn tại, châu Phi không phải làm điểm nóng cho xung đột mà là nền tảng cho đầu tư và phát triển.
Ngày càng có nhiều quốc gia châu Phi cam kết từ bỏ việc sử dụng than đá để đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu. Tình trạng thiếu điện sẽ là một trở ngại rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của châu Phi. Để giải quyết vấn đề này, châu Phi, đặc biệt là vùng hạ Sahara, cần sử dụng nhiều nguồn năng lượng thân thiện với môi trường hơn,chẳng hạn như năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, giải pháp tốt nhất sẽ là tạo ra một lưới điện thống nhất dựa trên một hoặc hai nhà máy điện hạt nhân. Sự kết hợp giữa công nghệ của Nga và Trung Quốc để xây dựng các nhà máy điện hạt nhân và công nghệ truyền tải điện siêu cao thế của Trung Quốc sẽ giúp ta tạo ra một “Châu Phi xanh”.
Hợp tác trong lĩnh vực sinh thái, bảo vệ môi trường phát triển bền vững
Văn kiện tổng kết hội nghị thượng đỉnh Nga - châu Phi tại Sochi đã dành sự chú ý đặc biệt cho hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Điều 45 của Tuyên bố nêu rõ các bên sẽ tăng cường nỗ lực chống biến đổi khí hậu ở châu Phi, chuyển giao công nghệ thích hợp, nâng cao năng lượng và khả năng của các quốc gia châu  Phi chống đỡ và thích ứng với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Gần đây, Nga đã phê chuẩn hiệp định Paris về biến đổi khí hậu và hiện đang tích cực tham gia các hoạt động chống biến đổi khí hậu trên toàn cầu. Sở hữu một nền tảng khoa học vững chắc, Nga sẵn sàng chia sẻ thành quả nghiên cứu cơ bản và khoa học của mình với châu Phi thông qua hợp tác. Hợp tác với các nước khác trong khuôn khổ Nghị trình Châu Phi 2063 ( kế hoạch phát triển toàn diện Châu Phi) sẽ đem lại các hình thức đối thoại mang tính xây dựng  và có thể có tầm quan trọng đặc biệt.
Tóm lại, có thể nói rằng châu Phí có tầm quan trọng chiến lược lớn đối với Nga và Trung Quốc.Cả hai nước đều có những lợi ích chung ở châu Phi, và không gian hợp tác Trung - Nga trên lục địa này rộng hơn nhiều so với không gian cạnh tranh giữa hai nước. Những nỗ lực chung của Trung Quốc và Nga nhằm duy trì hoà bình và ổn định ở châu Phi, cũng như thúc đẩy sự phát triển toàn diện về kinh tế và xã hội của châu lục này,là lợi ích chiến lược của cả hai nước. Đồng thời quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Nga và Trung Quốc ở châu Phi tạo ra động lực quan trọng để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.
 
THÁI ĐỘ CỦA MỸ KHI  NGA VÀ TRUNG QUỐC XÍCH LẠI GẦN NHAU
 
Theo bài viết đăng trên báo The Straits Times số ra ngày 7/6, mối quan hệ song phương giữa Trung Quốc và Nga giống như "vàng thau được thử lửa". Gần đây, các nhà lãnh đạo và quan chức hai nước bận rộn với việc bổ sung vào vốn từ vựng ngày càng nhiều cụm từ dùng để miêu tả mối quan hệ song phương của họ.
Hai nước đã và đang trở nên gắn bó chặt chẽ hơn trong những tháng gần đây, đưa quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu trước sức ép đang tăng lên từ phương Tây. Tháng 5 vừa qua, Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu rằng " quan hệ Nga - Trung đã đạt đến tầm cao nhất trong lịch sử" khi ông và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cùng phát động dưới hình thức trực tuyến lễ khởi công xây dựng 4 lò phản ứng hạt nhân ở Trung Quốc sử dụng công nghệ hạt nhân của Nga.
Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa Nga và Trung Quốc đã thu hút sự chú ý. Washington đã cảnh báo về hợp tác chiến lược ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Nga trong đánh giá hàng năm về các mối đe doạ toàn cầu của Văn phòng Giám đốc tình báo quốc gia được công bố hồi tháng 4/2021. Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng xích lại gần Nga, Nhà Trắng hi vọng cuộc gặp thượng đỉnh sắp tới tại Geneva giữa Biden và Putin sẽ khôi phục khả năng có thể dự đoán và tính ổn định cho quan hệ Mỹ - Nga.
Quan hệ Trung - Nga ngày càng sâu sắc
Mối quan hệ ba bên này đôi khi được giới học giả Trung Quốc ví với thời kỳ Tam quốc của Trung Quốc và được gọi là " Canh bạc lớn" như cuộc đối đầu giữa đế quốc Anh và nước Nga Sa hoàng hồi thế kỷ 19. Tình trạng đối kháng được phản ánh trong hàng loạt cuộc gặp song phương gần đây giữa các nhà ngoại giao hàng đầu của ba nước.
Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov đã đến thăm Trung Quốc hồi tháng 3 vừa qua và gặp người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị ngay sau đó. Cố Vấn chính sách đối ngoại hàng đầu của Tập Cận Bình là Dương Khiết Trì đã gặp đại diện phía Mỹ ở Alaska trong một cuộc trao đổi gay gắt. Sau đó vào tháng 5, Dương Khiết Trì đã đến thăm Moskva để tiến hành các cuộc hội đàm về chiến lược và an ninh, chỉ vài ngày sau khi Sergey Lavrov gặp Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ở Reykjavik ( Iceland) để đặt nền tảng cho cuộc  gặp thượng đỉnh sắp tới giữa tổng thống hai nước. Chuyên gia Chirs Cheang thuộc trường nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam ( RSIS) nhận xét sự hiện diện của Dương Khiết Trì ở Moskva chỉ vài tuần trước cuộc gặp thượng đỉnh Biden-Putin vào ngày 16/6 tới có thể được hiểu là một nỗ lực của Trung Quốc và Nga nhằm báo hiệu cho Mỹ rằng Washington không thể chia rẽ họ.
Tổng thống Joe Biden có quan điểm ngày càng cứng rắn đối với cả Trung Quốc và Nga. Ông mô tả Putin là "kẻ giết người" và gọi Tập Cận Bình là " tên côn đồ", đồng thời đặt các biện pháp trừng phạt đối với Nga vì hành vi xâm chiếm Crimea năm 2014 và đối với Trung Quốc vì những hành động vi phạm nhân quyền ở Tân Cương.
Ngược lại, theo đánh giá của chuyên gia Raffaello Pantucci thuộc RSIS, có sự thay đổi rõ rệt trong quan hệ giữa Bắc Kinh và Moskva. Trung Quốc và Nga có quan hệ khăng khít hơn rất nhiều so với một thời gian dài trước đây vì cả hai hiện đều bị vướng vào cuộc đối đầu với phương Tây. Quả thực, trong cuộc điện đàm ngày 4/6 vừa qua, Vương Nghị đã cảm ơn Sergey Lavrov vì sự ủng hộ dành cho Trung Quốc trước sức ép của Mỹ về vấn đề nhân quyền và nguồn gốc của virus SARS-CoV-2, đồng thời khẳng định cũng sẽ ủng hộ Nga về mặt chính trị trong việc bảo vệ những quyền hợp pháp của Nga.
Các chuyên gia khác chỉ ra sự bổ sung lẫn nhau là lý do khiến hai nước ngày càng trở nên gần gũi. Chẳng hạn, nguồn dự trữ năng lượng  khổng lồ của Nga đã đáp ứng được nhu cầu của Trung Quôc đối với tài nguyên - vốn chiếm tới hơn 70% lượng hàng xuất khẩu của Nga sang Trung Quốc. Khi Bắc Kinh tìm cách đa dạng hoá các nguồn cung năng lượng - họ đã cấm một cách không chính thức than đá của Australia vào năm 2020 - tầm quan trọng của năng lượng nhập khẩu từ Nga sẽ tăng lên.
Về phần mình, Moskva đã cho phép các công ty thuộc sở hữu nhà nước của Trung Quốc như Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC) đầu tư đáng kể vào lĩnh vực năng lượng của Nga. Ví dụ, CNPC đã đầu tư vào các giếng khí đốt tự nhiên ở khu vực Bắc Cực và bán đảo Yamal của Nga. Chuyên gia Pantucci cho rằng đây là trung tâm sức mạnh của Nga thông qua liên doanh với các công ty thuộc sở hữu nhà nước của Nga. Việc để cho Trung Quốc mua các tài sản năng lượng thực sự cho thấy mối quan hệ giữa hai nước đã được củng cố.
Trên mặt trận thương mại, tổng thương mại song phương đạt khoảng 100 tỷ USD năm 2020, giảm nhẹ so với năm 2019, nhưng đã và đang tăng lên đáng kể trong năm nay. Tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 40,207 tỷ USD trong bốn tháng đầu năm nay, cao hơn khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Cả hai nước có kế hoạch đạt mục tiêu thương mại 200 tỷ USD vào năm 2024.
Quan hệ quân sự và hợp tác trong lĩnh vực không gian cũng đang được mở rộng. Trong một ví dụ đặc biệt vào tháng 12/2020, các máy bay ném bom của Trung Quốc và Nga đã tiến hành một cuộc tuần tra chung ở biển Nhật Bản một ngày sau khi hai nước bị Mỹ áp đặt các biện pháp trừng phạt.
Phải chăng có những hạn chế
Mối quan hệ thân thiết này một lần nữa khơi lại câu hỏi vốn có từ lâu: Liệu Bắc Kinh và Moskva có trở thành đồng minh chính thức? Tháng 10/2019, Putin cho rằng đây là điều có thể về mặt lý thuyết, và Bắc Kinh cũng nhiều lần phát biểu rằng "không có giới hạn, không có vùng cấm và không có mức trần" cho sự hợp tác giữa hai nước.
Tuy nhiên, theo giáo sư Quan Quý Hải của Viện nghiên cứu quốc tế và chiến lược thuộc Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc có quan điểm chia rẽ về vấn đề này. Một số học giả Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh cần tiến tới liên minh chính thức với Moskva do mức độ đối đầu cao với Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm theo trào lưu chính là Trung Quốc cần thận trọng hơn và giữ cân bằng quan hệ của mình với Nga và Mỹ.
Theo giáo sư Quan, Trung Quốc rất thận trọng với chủ đề liên minh quân sự vì nếu xảy ra, điều đó đồng nghĩa với sự bắt đầu của một cuộc chiến tranh Lạnh mới, với Trung Quốc và Nga ở một bên và bên kia là Mỹ. Bắc Kinh không muốn vướng vào một cuộc xung đột với NATO về vấn đề Ukraine hay Crimea, và tương tự Moskva cũng không muốn vướng vào các tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
Các nhân tố khác tác động đến mối quan hệ này bao gồm quan hệ thương mại không cân bằng và việc Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng khu vực Trung Á - vốn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của Nga. Theo cơ sở dữ liệu Comtrade của Liên hợp quốc năm 2020, trong khi Bắc Kinh là đối tác thương mại lớn nhất của Moskva, thì Nga xếp thứ 14 trong xuất khẩu của Trung Quốc.
Với xuất khẩu năng lượng chiếm phần lớn nhất trong thương mại với Bắc Kinh, Moskva cũng phải đối mặt với thách thức trong việc đa dạng hoá xuất khẩu của mình. Theo chuyên gia Cheang, điều đó có nghĩa là Nga có thể trở nên phụ thuộc về nguyên liệu thô và năng lượng vào Trung Quốc - nỗi lo sợ được thể hiện rộng rãi trong những năm 1990 về mối quan hệ khi đó của Nga với phương Tây.
Tuy nhiên, điều đó có lẽ khiến Moskva lo lắng nhất là ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc đối với khu vực Trung Á, vốn được coi là phạm vi ảnh hưởng truyền thống của Nga. Trung Quốc đã vượt Nga trở thành đối tác thương mại chính của Trung Á vào năm 2009. Bắc Kinh đã và đang tăng cường đầu tư vào khu vực này, đặc biệt là trong khuôn khổ Sáng kiến " Vành đai và Con đường" (BRI)
Canh bạc lớn mới
Cho dù vậy, điều đáng lưu ý là Trung Quốc và Nga giờ đây ở vị trí khác biệt rất lớn so với thời kỳ hai nước còn là các cường quốc cộng sản những năm 1970. Quay trở lại thời kỳ đó, cuộc xung đột biên giới năm 1969 đã đưa Trung Quốc và Liên Xô đến bên bờ vực chiến tranh. Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã lợi dụng điều này, với việc Washington theo đuổi các mối quan hệ chặt chẽ hơn với cả hai nước để chia rẽ họ.
Hiện nay, các chuyên gia cho rằng việc Moskva tạo dựng một mối quan hệ đối tác chặt chẽ hơn với Bắc Kinh mang ý nghĩa chiến lược. Trong một số bình luận gần đây, các chuyên gia cấp cao Eugene Rumer và Richard Sokolsky thuộc trung tâm Carnegie Moskva đã chỉ rõ rằng việc bình thường hoá quan hệ với Bắc Kinh trong những năm 1990 đã giảm bớt gánh nặng cho Moskva khi họ không còn phải duy trì một sự hiện diện quân sự khổng lồ - lên tới 50 sư đoàn được triển khai dọc đường biên giới dài 4.000km giữa nước này với Trung Quốc vào thời kỳ đỉnh điểm của sự căng thẳng Trung - Xô.
Thông qua hợp tác, cả Moskva và Bắc Kinh có thể triển khai các tài sản quân sự và ngoại giao của họ nhằm ứng phó với những thác thức khác, như để đối phó với Mỹ. Một số chuyên gia cho rằng vẫn có khả năng thực tế là khối Trung - Nga có thể hình thành, và cả hai bên có thể trở thành đồng minh trên danh nghĩa.
Ví dụ, Pantucci chỉ rõ rằng dường như đã có sự phối hợp nào đó giữa Bắc Kinh và Moskva trong hành động và lời nói của họ về các vấn đề từ Myanmar đến phòng, chống dịch bệnh COVID-19 cho tới vấn đề Iran. Như ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã phát biểu trong cuộc điện đàm với ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov: "Mỹ sử dụng dân chủ làm chiêu bài để hình thành các phe phái nhỏ, sử dụng nhân quyền làm lý do để can thiệp vào công việc của các nước khác và thúc đẩy chủ nghĩa đơn phương đối đầu với ngọn cờ của chủ nghĩa đa phương. Bắc Kinh và Nga cần phải chung tay vạch trần và chống lại những hành vi quá đáng này".
Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), một nhóm khu vực Âu - Á được hình thành vào năm 2001 bao gồm Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Kazakhstan, Pakistan, Tajikistan và Uzbekistan, cùng với 10 nước khác với tư cách quan sát viên hoặc đối tác đối thoại, cũng có tiềm năng trở thành phương tiện để mở rộng ảnh hưởng Trung - Nga. Pantucci cho rằng tổ chức này đã thiết lập một mạng lưới gồm liên minh, liên kết và hiệp định trên khắp khu vực Âu - Á rộng lớn mà không bắt nguồn từ trật tự do phương Tây thiết lập.
Khi thúc đẩy một cuộc gặp thượng đỉnh với Tổng thống Nga, Washington đang chứng tỏ rằng họ biết những nguỵ cơ xảy đến nếu họ tiếp tục đẩy Moskva về phía Bắc Kinh. Ưu tiên chính của Washington hiện nay là tập trung vào Trung Quốc với tư cách; là đối thủ cạnh tranh chiến lược lớn nhất của mình. Hình Đống, nhà phân tích về Trung Quốc và Nga ở Australia, cho rằng Washington sẽ xoá bỏ một số sức ép mà họ đã áp đặt đối với Nga nếu Moskva đưa ra một số thoả hiệp. Khi ba siêu cường cạnh tranh nhau, tất cả mọi con mắt đang theo dõi xem " Canh bạc lớn" này sẽ diễn ra như thế nào.
 
Trung tâm BDCT thành phố
(Tổng hợp từ các Bản tin của TTXVN)
 
 
 
 
Video
Thống kê truy cập
Đang online33
Tất cả2576371