2019-12-25 11:06:43
Số lượt xem 2138
THÀNH UỶ BẮC NINH
BAN TUYÊN GIÁO
*
Số: 31 - HD/BTG
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Bắc Ninh, ngày 24 tháng 12 năm 2019.
|
HƯỚNG DẪN
Tuyên truyền kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930 – 3/2/2020) và mừng xuân Canh Tý
Thực hiện Hướng dẫn số 107- HD/BTGTW ngày 15/11/2019 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Hướng dẫn số 60- HD/BTGTU ngày 09/12/2019 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Ninh; Ban Tuyên giáo Thành ủy hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2020) và mừng xuân Canh Tý như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Tuyên truyền sâu rộng, làm cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định vai trò, uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong suốt chặng đường cách mạng Việt Nam 90 năm qua; khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành vô hạn với lợi ích của quốc gia, dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thông qua các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm, khơi dậy và bồi đắp niềm tin, niềm tự hào đối với Đảng, Bác Hồ và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nắm bắt thời cơ, vận hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015-2020, Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Đại hội XII của Đảng.
- Các hoạt động tuyên truyền cần được tổ chức thiết thực, hiệu quả với nhiều nội dung và hình thức mới, có sức lan tỏa sâu rộng; tạo không khí phấn khởi, thi đua lập nhiều thành tích mới mừng Đảng, mừng Xuân và chào mừng đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 -2025 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
II. NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN
1. Tuyên truyền những mốc son chói lọi của Đảng, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; những thành tựu phát triển của tỉnh, đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh đến nay; khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách; nêu bật những truyền thống quý báu và bài học kinh nghiệm trong suốt chặng đường cách mạng 90 năm qua của Đảng, nhất là 35 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước; khẳng định sức sống của Đảng trong mối liên hệ mật thiết, máu thịt với nhân dân, ngoài lợi ích của nhân dân Đảng ta không còn lợi ích nào khác; khẳng định niềm tin của nhân dân đối với Đảng và công cuộc đổi mới đất nước.
2. Tuyên truyền công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm rõ những kết quả và bài học kinh nghiệm trong triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua các kỳ đại hội ở các cấp, các tổ chức đảng, nhất là trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ gắn với việc triển khai chỉ thị của Bộ Chính trị các khóa về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; khẳng định Đảng luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn quan tâm chăm lo tới việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho cán bộ, đảng viên; khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
3. Tri ân các Lãnh tụ Đảng, các lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, các anh hùng liệt sĩ, đồng bào, đồng chí đã chiến đấu ngoan cường và hy sinh anh dũng trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài, gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân tộc, của Đảng; biểu dương cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên tiêu biểu ở các cấp, các ngành; phát hiện và nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo trong đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt cấp ủy và chi bộ; đề xuất, kiến nghị những giải pháp nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ, đảng viên hiện nay.
4. Tuyên truyền những kết quả, chỉ rõ hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, đặc biệt là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020, Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và trong công tác tuyên truyền chuẩn bị phục vụ, tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; phát hiện và biểu dương những điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước, nỗ lực vượt qua khó khăn, phấn đấu hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020, Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ XIX và Đại hội XII của Đảng.
5. Tuyên truyền, tôn vinh những giá trị văn hoá truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mỗi khi Tết đến Xuân về gắn với việc tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật về an toàn giao thông, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tệ nạn, cờ bạc, mê tín dị đoan và các biểu hiện thương mại hóa trong hoạt động lễ hội diễn ra trước, trong và sau Tết.
6. Phản ánh không khí phấn khởi, tin tưởng, thi đua yêu nước và các hoạt động tuyên truyền, kỷ niệm sự kiện diễn ra ở các cấp, các ngành; biểu dương, khích lệ các hoạt động chăm lo, giúp đỡ thương binh, gia đình chính sách, người có công với cách mạng và cán bộ, chiến sỹ, người lao động đang làm nhiệm vụ trong dịp Tết, những người có hoàn cảnh khó khăn.
7. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, thù địch; đồng thời vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM
Căn cứ điều kiện cụ thể, lựa chọn các hình thức tuyên truyền kỷ niệm phù hợp như:
- Tổ chức Hội nghị gặp mặt, biểu dương cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên có công lao, đóng góp tiêu biểu đối với công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh,… trong 5 năm qua (từ năm 2015 đến năm 2020).
- Tiếp tục động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia cuộc thi trắc nghiệm tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam trên mạng VCNET.…
- Tổ chức phát động các phong trào thi đua yêu nước; trao huy hiệu Đảng; kết nạp đảng viên mới vào dịp 3/2.
- Tổ chức các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”; thăm hỏi, tri ân các lớp thế hệ đảng viên lão thành; tham quan di tích lịch sử; các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục, thể thao mừng Đảng, mừng Xuân và chào mừng đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 – 2025 tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, đài phát thanh, đài truyền thanh cơ sở, các phương tiện cổ động trực quan, hội nghị báo cáo viên, tuyên truyền viên; thông qua các tài liệu, ấn phẩm tuyên truyền…
Ngoài các hoạt động nêu trên, tùy theo tình hình cụ thể lựa chọn các hình thức tuyên truyền kỷ niệm phù hợp khác, như: Tổ chức hội thảo, tọa đàm khoa học với quy mô phù hợp, khẳng định vai trò, công lao, cống hiến to lớn của các cấp, các ngành, đoàn thể đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng 90 năm qua; đồng thời đề xuất, kiến nghị giải pháp góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; chiếu phim tư liệu về Đảng và thành tựu phát triển của đất nước; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ bằng nhiều hình thức phù hợp như thi viết, thi tuyên truyền viên,….
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các ban, ngành, đoàn thể, đơn vị, địa phương trên địa bàn thành phố
- Tổ chức có hiệu quả các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm; Tùy tình hình cụ thể của đơn vị lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức lồng ghép các hoạt động tuyên truyền như: qua các hội nghị, cuộc họp, cổ động trực quan, thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và các ấn phẩm tuyên truyền kỷ niệm phù hợp, thiết thực, hiệu quả.
Thời gian tổ chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm sự kiện từ tháng 12/2019 đến hết tháng 3/2020, cao điểm từ cuối tháng 1 và trong tháng 2/2020.
- Các đơn vi, địa phương: Đẩy mạnh thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị; nắm chắc tình hình tư tưởng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trong dịp Tết, nhất là các gia đình chính sách, người có công với nước; các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, tổ chức đảng, đoàn thể trực thuộc triển khai thực hiện có hiệu quả đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng sâu rộng trong trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Chủ đề sinh hoạt: "Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh".
Nội dung sinh hoạt:
+ Ôn lại lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam 90 năm qua theo Đề cương tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
+ Liên hệ, ôn lại truyền thống, công lao, đóng góp to lớn của tổ chức Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam 90 năm qua. Tập trung đánh giá việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về công tác xây dựng Đảng, nhất là việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng Đảng gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời thảo luận, trao đổi, nhận thức đầy đủ, sâu sắc những thuận lợi, khó khăn, thách thức của Đảng trong thời gian tới, đề xuất giải pháp của tổ chức đảng, của chính quyền, đoàn thể, của cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Hình thức sinh hoạt:
+ Đối với các chi bộ Đảng, tổ chức sinh hoạt chuyên đề tháng 1 đến đầu tháng 2/2020.
+ Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể thành phố: Đưa vào nội dung sinh hoạt chi đoàn, chi hội trong Quý I năm 2020.
2. Phòng Văn hóa thông tin thành phố; Cổng thông tin điện tử thành phố; Trang Thông tin điện tử Thành ủy:
- Tùy chức năng, nhiệm vụ cụ thể, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, cổ động trực quan, trọng tâm là tuyên truyền trên băng zôn, pa nô, áp phích, bảng điện tử; triển lãm, trưng bày chuyên đề; chiếu phim về Đảng, về thành tựu của đất nước, của tỉnh, thành phố; tổ chức các chương trình văn hóa - văn nghệ, hoạt động thể dục, thể thao… tạo không khí vui tươi, phấn khởi, thi đua trong toàn thành phố.
- Phối hợp với các địa phương, đơn vị tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm.
- Xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.
3. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tuyên truyền kỷ niệm theo nội dung hướng dẫn; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên thi đua yêu nước, tích cực tham gia có hiệu quả các hoạt động trong dịp kỷ niệm; tổ chức tốt đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng trong các cấp hội.
4. Phân Hội Văn học nghệ thuật thành phố: Động viên văn nghệ sỹ sáng tác các tác phẩm văn học - nghệ thuật kỷ niệm sự kiện.
5. Ban Tuyên giáo các đảng ủy trực thuộc.
- Chủ động tham mưu, đề xuất giúp cấp ủy chỉ đạo tổ chức có hiệu quả các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm của địa phương, đơn vị; chú trọng tới công tác tuyên truyền về sự kiện, các phương tiện thông tin, thông qua đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên và các ấn phẩm tuyên truyền.
- Chủ động nắm tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để kịp thời tham mưu, đề xuất các hoạt động tuyên truyền phù hợp cho cấp ủy đảng, chính quyền.
- Tham mưu giúp cấp ủy tổ chức tốt đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
- Theo dõi, kiểm tra tổ chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm của địa phương để báo cáo với cấp ủy đảng và Ban Tuyên giáo Thành ủy.
V. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1. Nhiệt liệt chào mừng 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020)!
2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam!
3. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng!
4. Quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX!
5. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng!
6. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh!
7. Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
8. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
9. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
10. Tạo động lực phát triển, phấn đấu xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương!
Thực hiện nhiệm vụ được phân công, Ban Tuyên giáo Thành ủy ban hành Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020) và mừng Xuân Canh Tý. Đề nghị các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện, báo cáo kết quả về Ban Tuyên giáo Thành ủy trước ngày 25/2/2020 để tổng hợp báo cáo Thường trực Thành ủy và Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.
Nơi nhận:
- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy (b/c);
- Thường trực Thành ủy, HĐND-UBND TP (b/c);
- MTTQ và các đoàn thể TP;
- Các phòng, ban, ngành;
- Phân hội văn học nghệ thuật TP;
- Các chi, đảng bộ trực thuộc;
- Lưu BTG.
|
KT. TRƯỞNG BAN
PHÓ TRƯỞNG BAN
đã ký
Nguyễn Hồng Thiêm
|
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (3/2/1930 – 3/2/2020)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.
- Từ ngày 25 đến 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
- Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 90 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG
1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
- Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào XôViết-Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
- Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)
- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.
- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...
3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
- Những thành tựu qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
4. Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP
1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh
- Những thắng lợi vĩ đại trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với quyết tâm chính trị cao, Ban Chấp hành Trung ương đã bám sát 6 nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội, ban hành 4 nghị quyết và 01 quy định để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 124 văn bản (nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, kế hoạch, hướng dẫn...) về công tác xây dựng Đảng, trong đó kịp thời ban hành các nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ mới, quan trọng như: thực hiện một số mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy; việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức chạy quyền; trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và chiến lược an ninh mạng quốc gia; về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới... Việc Trung ương ban hành kịp thời, đồng bộ hệ thống văn bản trên hầu hết trên các lĩnh vực đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.
Sau thời gian triển khai thực hiện, Công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay đã có trên 50 nghìn cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có hơn 70 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã kỷ luật 7 tổ chức đảng. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao được nâng lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân... Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.
Trong tình hình ấy, chúng ta càng cần phải tập trung làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Phương hướng chung của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển.
Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái của cơ chế thị trường, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hoá, biến chất. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng - là một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã khẳng định: Phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
IV. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN BẮC NINH TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Bắc Ninh là một tỉnh giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, vùng đất địa linh nhân kiệt. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, nhiều thanh niên, học sinh yêu nước Bắc Ninh đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng và sau này trở thành những lãnh tụ xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, tiêu biểu như Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Lê Quang Đạo....
Bằng hoạt động tích cực của các chiến sỹ cộng sản, phong trào cách mạng ở Bắc Ninh không ngừng phát triển và lan rộng, nhiều cơ sở Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra đời tại các làng Tam Sơn (Từ Sơn), Phật Tích (Tiên Du), Lạc Thổ (Thuận Thành), Niềm Xá- Vệ An- Đáp Cầu- Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh)... Ngày 4-8- 1929 tại núi Hồng Vân (núi Lim, Tiên Du) Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Ninh- Bắc Giang được thành lập (sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3-2-1930 được đổi thành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bắc Ninh- Bắc Giang).
Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Bắc Ninh- Bắc Giang được thành lập đánh dấu sự phát triển vượt bậc của phong trào cách mạng Bắc Ninh, Bắc Giang. Từ đây phong trào cách mạng phát triển sang một giai đoạn mới.
Trong cao trào cách mạng 1930- 1931; 1936- 1939, Bắc Ninh đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phong trào đấu tranh chống chính sách áp bức bóc lột của thực dân Pháp bùng lên mạnh mẽ, tiêu biểu như phong trào đấu tranh chống thuế, chống phù thu lạm bổ của nông dân làng Liễu Ngạn, Thuận Thành (1938) buộc chính quyền thực dân phong kiến phải nhượng bộ.
Đến cuối năm 1941, Đảng bộ Bắc Ninh đã có 3 chi bộ Liễu Khê (Thuận Thành), Đình Bảng, Cẩm Giang- Trang Liệt (Từ Sơn) và được Trung ương cho phép thành lập Ban cán sự Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, nhiều địa phương trong tỉnh trở thành An toàn khu (ATK) của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ; nhân dân Bắc Ninh đã bảo vệ an toàn nhiều lớp huấn luyện, hội nghị của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ. Ngày 12/3/1945, tại Đình Bảng (Từ Sơn), Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Từ đó cao trào kháng Nhật bùng nổ mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
Sau Cách mạng tháng Tám, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh xây dựng củng cố chính quyền các cấp, các tổ chức quần chúng, tăng cường lực lượng tự vệ, bảo vệ chính quyền cách mạng, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ và anh dũng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bắc Ninh đã đoàn kết đấu tranh phá tan các âm mưu thâm độc của địch, chống xây bốt, lập tề; phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bộ đội chủ lực phá tan nhiều trận càn lớn, nhỏ, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Bắc Ninh đã hưởng ứng tích cực các phong trào… và giành nhiều kết quả quan trọng, góp phần cùng cả nước đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm nên chiến thắng Mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh đã được Đảng, Nhà nước phong tặng đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 50 tập thể, 22 cá nhân được Nhà nước tuyên dương, phong tặng, truy tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 1423 Mẹ Việt Nam anh hùng (Theo số liệu của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh, tính đến tháng 7/2019).
Trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh đã khắc phục khó khăn vươn lên tạo chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội; thực hiện tốt Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết số 10- NQ của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, kinh tế - xã hội Bắc Ninh đã có bước phát triển khá toàn diện, góp phần xứng đáng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trải qua 90 năm xây dựng và trưởng thành từ lúc có hơn 20 đảng viên đến nay đảng bộ đã có 57.198 đảng viên (tính đến tháng 30/6/2019). Với truyền thống đoàn kết, đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân đoàn kết phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Phát huy truyền thống của quê hương văn hiến và cách mạng, sau hơn 20 năm tái lập Bắc Ninh đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định; công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng được cải thiện, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội; Công tác xây dựng Đảng và chính quyền luôn được chú trọng củng cố, kiện toàn, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin trong nhân dân, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo nền tảng để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Năm 2019, Đảng bộ, chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh đã đoàn kết, thống nhất, không ngừng đổi mới, sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức; bám sát các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương và chủ đề, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, tổ chức thực hiện đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực, một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội vẫn đứng trong tốp cao nhất cả nước, như: Quy mô kinh tế, giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu, thu ngân sách, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, GDP bình quân/người…; Chương trình xây dựng Nông thôn mới (NTM) đạt nhiều kết quả, có 96/97 xã đạt chuẩn NTM; công nhận thêm 02 huyện Quế Võ, Gia Bình đạt chuẩn NTM; tổ chức thành công Festival “Về miền Quan họ - 2019” gắn với kỷ niệm 10 năm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại với các chuỗi sự kiện văn hóa, thể thao ý nghĩa.…
Năm 2020 diễn ra Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tỉnh Bắc Ninh xác định chủ đề năm 2020 “Bắc Ninh đoàn kết - Đổi mới - Tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp; tiếp tục tập trung thực hiện hiệu quả Đề án bảo vệ môi trường”, với các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
1. Tạo mọi điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần, khu vực kinh tế. Tiếp tục xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư trong nước, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế; tạo sự lan tỏa mạnh mẽ giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp tư nhân, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp trong nước phát triển công nghiệp hỗ trợ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tiếp tục lựa chọn đầu tư theo hướng công nghiệp công nghệ cao, thân thiện môi trường, thu nhiều ngân sách; nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách phát triển và hoạt động hiệu quả các cụm công nghiệp, làng nghề truyền thống, tăng sức cạnh tranh, giá trị sản xuất và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế khu vực này. Đánh giá và nâng cao hiệu quả hoạt động 6 đề án phát triển dịch vụ phục vụ KCN; đẩy mạnh tăng trưởng các ngành thương mại, dịch vụ. Phát huy lợi thế việc dồn điền, đổi thửa để tích tụ, tập trung ruộng đất sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp công nghệ cao, tăng giá trị sản xuất/ha canh tác; phát triển mạnh kinh tế trang trại; có giải pháp hữu hiệu phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ cây trồng, đàn vật nuôi và hỗ trợ nhiều hơn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; có giải pháp thiết thực hạn chế nông dân bỏ ruộng, nhằm đưa diện tích đất nông nghiệp vào sản xuất hiệu quả. Xây dựng NTM theo hướng NTM nâng cao, thực chất, gắn phát triển nông thôn với đô thị.
2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc, đất đai, tài nguyên môi trường, đầu tư XDCB, tài chính... Rà soát, bố trí đầu tư xây dựng các công trình, dự án theo lộ trình, đúng luật đầu tư công và các quy định pháp luật liên quan để tránh nợ đọng XDCB. Ưu tiên đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình trọng điểm, công trình chào mừng Đại hội Đảng, công trình có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống dân sinh, như: Đường nối từ nút giao Tây Nam đi QL.38 (thành phố Bắc Ninh); đường TL.287 (đoạn nối từ QL.38 đến QL.18); nhà văn hóa thanh thiếu nhi phía Nam sông Đuống (huyện Gia Bình)... Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thông minh. Tiếp tục thực hiện tốt chủ đề năm môi trường, hạn chế rác thải nhựa sử dụng một lần nhằm tạo môi trường sạch trong đời sống sinh hoạt của nhân dân. Quản lý chặt chẽ đất đai, ngăn chặn, chấm dứt và xử lý nghiêm các trường hợp lấn chiếm đất đai, giao, bán đất trái thẩm quyền. Chỉ đạo chặt chẽ, đúng quy định pháp luật về việc chuyển mục đích sử dụng đất, điều chỉnh, bổ sung chức năng sử dụng đất. Việc xây dựng các tòa nhà hỗn hợp (Trụ sở - Văn phòng - Trung tâm thương mại - Nhà ở cho thuê hoặc bán...) phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật; chú ý với những loại dự án chưa có sự thống nhất giữa Luật Đất đai với Luật Nhà ở, Luật Xây dựng, Luật Đấu giá, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công... thì phải tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, đấu giá quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, tránh làm thất thoát tài sản, ngân sách Nhà nước. Đối với dự án đấu giá quyền sử dụng đất phải thực hiện đúng quy định về ủy quyền; đồng thời niêm yết, đăng công khai trên phương tiện thông tin theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch, sự cạnh tranh lành mạnh... Tập trung giải quyết vướng mắc đối với các dự án đầu tư theo hình thức BT, BOT... nhất là phải bảo đảm về trình tự, thủ tục, cách tính giá đất; việc thanh, quyết toán phải theo nguyên tắc ngang giá (giá trị dự án đối ứng bằng giá trị dự án BT).
3. Tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động các lĩnh vực văn hóa - xã hội; giáo dục - đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, văn hóa - văn nghệ - TDTT, báo chí - truyền thông - phát thanh truyền hình; việc làm, an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
4. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc phát sinh từ cơ sở, không để trở thành điểm nóng, phục vụ tốt cho Đại hội Đảng các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao các chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh; tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, nhất là “tham nhũng vặt” trong các cơ quan. Nâng cao chất lượng phối hợp và hoạt động của các ngành trong khối Nội chính, Tư pháp; thực hiện tốt các Quyết định, Kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán… Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.
5. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 4 khóa XI, XII, gắn với Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Trung ương, Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của BCH Trung ương và các quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng các mặt công tác xây dựng Đảng; tập trung chỉ đạo thành công Đại hội Đảng các cấp theo tinh thần Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị, Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW, ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương về “Một số nội dung Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp, vai trò giám sát của HĐND, Đoàn ĐBQH tỉnh. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân theo hướng bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, sâu sát cơ sở, gần gũi hội viên, đoàn viên; chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, đoàn viên; tích cực giám sát và phản biện xã hội; tập hợp và động viên hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
*
* *
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
Mừng Đảng, mừng xuân Canh Tý 2020, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2015 -2020, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX; thống nhất về nhận thức, tư tưởng chính trị và hành động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để tổ chức thành công đại hội và đưa nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 -2025, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào cuộc sống; phấn đấu xây dựng Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc trung ương./.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
Video
Thống kê truy cập
Đang online | 39 | |
Tất cả | 3090039 |